Minh Thạnh
Sau bài viết “Đào tạo tăng ni sinh dân tộc thiểu số vùng
cao”, đã có bạn đọc hiểu ý kiến của chúng tôi là “lấy
lợi về vật chất để hoằng dương chánh pháp…”.
Tôi nghĩ rằng, có lẽ do
tôi đã diễn đạt chưa rõ ý tưởng của mình, nên đã đưa đến cách hiểu như vậy, mặc
dù đã nêu lên một số đề xuất rất cụ thể, chi tiết, cần phải làm gì, làm ra sao.
Vì vậy, tôi thấy cần nói
rõ hơn về mục tiêu đào tạo tăng ni dân tộc thiểu số vùng cao.
Đào tạo, mà chỉ nghĩ đến
mỗi khía cạnh lợi ích vật chất, thì chỉ là ảo tưởng! Nếu chỉ dùng mỗi đồng tiền
mà có được người, thì nói chi đến từ “đào tạo”. Vì khi đó, cứ cầm tiền đi mua
người, là đã đủ đạt như ý muốn.
Bây giờ, bỏ ra bao nhiêu
tiền, để có một vị tăng hay một vị ni người dân tộc thiểu số? Điều đó là không
thể. Các tôn giáo truyền đạo thành công ở Tây Nguyên, Tây Bắc đâu phải chỉ dùng
tiền “mua” người mà có được chức sắc tôn giáo người dân tộc thiểu số? Họ đã trải
qua quá trình nhiều thập niên đào tạo gian khổ, dĩ nhiên là tốn tiền, nhưng bên
cạnh đó còn rất nhiều thứ khác nữa. Đào tạo đâu phải là chuyện đi mua một món đồ
có sẵn.
Khái niệm “cử tuyển” và
“đào tạo” mà chúng tôi đề cập trong bài viết trước không có nghĩa chỉ là cho học
bổng, hay trợ cấp. Từ “cử tuyển” hay “đào tạo” ngoài xã hội đang dùng cũng không
phải chỉ có nghĩa như vậy.
Điều mà chúng tôi muốn
nói đến, là toàn bộ nhân duyên gồm cả tinh thần và vật chất, để có được người tu
sĩ Phật giáo người dân tộc thiểu số vùng cao, để hoằng dương chánh pháp cho
chính dân tộc mình, tại chính địa phương bản quán của mình.
Nhân duyên đó trước hết
là phải chính từ nhận thức của Phật giáo Việt Nam.
Phật giáo Việt Nam không
nên được hiểu chỉ là Phật giáo người Kinh, hay chỉ là Phật giáo người Kinh, và
một số dân tộc thiểu số đồng bằng như người Hoa, người Khmer (như hiện nay).
Thay vào đó, cần nhận
thức lại về Phật giáo Việt Nam. Phật giáo Việt Nam là Phật giáo của tất cả
những dân tộc sống trên đất nước Việt Nam.
Tất nhiên, từ trước đến
nay Phật giáo Việt Nam không có nhận thức như vậy. Hệ quả là không có tăng ni,
giáo phẩm Phật giáo Việt Nam là người dân tộc thiểu số miền cao (các dân tộc
sống ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên).
Nhận thức lại, rằng Phật
giáo Việt Nam là Phật giáo của tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam
thật không phải là điều dễ dàng. Bởi, từ nhỏ, tôi đã được dạy rằng nhiều dân tộc
không có nhân duyên với Phật giáo, cho nên không thể hoằng pháp đến họ, huống
chi là vùng “biên địa”. Sinh ra ở vùng biên địa thì ít phước, không có cơ duyên
với đạo Phật. Giải thích tuy có phần dễ dãi như vậy thì nghe cũng hợp lý? Cũng
có người bảo rằng đồng bào Thượng (từ trước năm 1975 gọi đồng bào dân tộc thiểu
số vùng cao) cũng đã có tôn giáo riêng nguyên thủy của họ, và cũng quy lại ở…
nhân duyên!
Nhân duyên? Thật vậy,
nhưng vì sao lại là nhân duyên với các đạo khác, mà chỉ trừ đạo Phật, điều mà
bây giờ đã nhận ra. Nhưng dường như trước 1975, không hề có khái niệm đạo Phật
cho tất cả các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Thắc mắc điều này là chuyện trẻ
con, kỳ cục. Còn sau 1975, thì việc giữ đạo Phật ở miền đồng bằng đã khó, chẳng
gì nghĩ chuyện xa xôi.
Đến những năm 1990, có
dịp lên các tỉnh Tây Nguyên, vào vùng đồng bào các dân tộc thiểu số thì thấy
toàn nhà nhờ, dù nhiều cái rất lụp xụp. Sáng chủ nhật người đi lễ tấp nập không
khác ở Hố Nai, Gia Kiệm. Trên tòa giảng cũng là người dân tộc thiểu số. Họ không
mặc áo vest, mà mặc y phục dân tộc thiểu số, nên không chắc là mục sư. Và có cả
ca đoàn hợp xướng người dân tộc thiểu số. Tất cả cùng tổ chức thánh lễ cho người
dân tộc thiểu số.
Bây giờ đặt vấn đề nhận
thức Phật giáo Việt Nam là Phật giáo các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam quả
là muộn màng, nhưng vẫn không dễ dàng.
Nhân duyên không phải
cái mà cầu nguyện để được ban phát. Nếu nghĩ nhân duyên như là định mệnh thì
hoàn toàn trái ngược với tinh thần đạo Phật. Đó là cái loại nhân duyên loại trừ
Phật giáo ra khỏi cộng đồng đồng bào các dân tộc anh em, và như thế là một bước
loại trừ Phật giáo khỏi Việt Nam ra khỏi dân tộc.
Vì vậy, đặt vấn đề đào
tạo tăng ni đồng bào dân tộc thiểu số miền cao trước hết là đặt vấn đề nhận thức
lại khái niệm về Phật giáo Việt Nam, với nhân mới, duyên mới, trong đó vật chất
chỉ là một phần. Xin nhắc lại, không phải “lấy lợi về vật chất để hoằng dương
chánh pháp”, mà coi lợi ích vật chất chỉ là một trong nhiều thứ nhân duyên cần
có mà thôi.
Đời sống kinh tế đồng
bào dân tộc thiểu số vùng cao, nhìn chung, còn kém xa người kinh đồng bằng, và
cả người kinh ở cao nguyên. Buộc tăng ni sinh đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao
(nếu may mắn có) đóng học phí như tăng ni sinh thì không thể nói chuyện đào tạo.
Lấy học bổng để tạo nhân duyên hóa độ khác rất xa chuyện “lấy lợi về vật chất để
hoằng dương chánh pháp”. Không phải đặt điều kiện tu học thì được lợi, mà là hỗ
trợ nhân duyên cho việc tu học. Hỗ trợ đó trước hết là nhận thức cần đào tạo
tăng ni sinh đồng bào dân tộc ít người, cần họ để hoằng dương chánh pháp, không
coi họ là vô duyên với Phật pháp. Rồi sau đó là học bổng, chỗ ở, phương tiện
hoằng pháp…
Nhân duyên tu học của
đồng bào dân tộc thiểu số không hoàn toàn tương đồng với nhân duyên tu học của
người Kinh miền xuôi. Vì vậy, nên đã nhắc tới khái niệm cử tuyển. Cử tuyển tức
là nhận đào tạo không phải thông qua thi tuyển, không loại ra bằng thi tuyển, là
tuyển sinh với những tiêu chuẩn đặc biệt phù hợp với hoàn cảnh, trình độ đồng
bào dân tộc thiểu số miền cao. Rồi sau đó mới là miễn học phí, cấp học bổng.
Cái khó ở đây trước hết
không nằm ở chuyện tiền bạc, mà chấp nhận quan điểm có mức chuẩn thấp hơn cho
sinh viên tu sĩ đồng bào dân tộc ít người, mà cơ sở là nhu cầu đào tạo đặc biệt
đối với đối tượng này. Thế nên, mới có hệ quả là Phật giáo Việt Nam đến nay
không có được tu sĩ, giáo phẩm người dân tộc thiểu số vùng cao. Không có tăng ni
sinh đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao, thì việc đào tạo tu sĩ của Phật giáo
Việt Nam vẫn không có được kết quả mỹ mãn.
Những mục sư Tin Lành
đồng bào dân tộc thiểu số chắc chắn không phải không kinh qua đào tạo, mà ngược
lại, có khi còn được đào tạo bài bản, chặt chẽ. Ví dụ rất sinh động là một mục
sư đơn vị cơ sở (không phải là giáo phẩm cấp cao, chủ tịch hay phó chủ tịch Hội
thánh) lại cùng ngồi trả lời phỏng vấn kênh truyền hình hải ngoại với nhị vị Phó
chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN. Để đào tạo những mục sư người dân tộc thiểu số
vùng cao, chắc chắn cơ sở đào tạo thần học phải có những chính sách tuyển sinh
đặc biệt, có chiếu cố điều kiện dân tộc đặc thù. Tất nhiên, cũng sẽ có hỗ trợ
tiền bạc, nhưng không phải chỉ là tiền bạc, cũng không phải trước hết là tiền
bạc.
Như vậy, trở lại, cái
khó là ở chỗ nhận thức. Đó chính là nhân duyên căn bản trong việc đào tạo tăng
ni sinh đồng bào dân tộc thiểu số miền cao.
MT