Vĩnh Hảo
Thế kỷ thứ
5, pháp sư người Thiên Trúc, tên Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva)
viên
tịch; sau lễ hỏa thiêu, toàn
thân
ra tro,
riêng
lưỡi vẫn còn nguyên,
hiển
thị rằng việc dịch thuật Tam Tạng Kinh từ Phạn
ngữ sang Hán văn, không sai, không dối.
Thế kỷ 20, pháp
sư người Việt Nam, đạo hiệu Quảng Đức, tự thiêu thân, sau
lễ hỏa táng, để lại trái tim, đốt
thêm lần nữa vẫn không cháy,
hiển
thị rằng “Phật giáo Việt Nam được
trường tồn
bất diệt.” 1
“Phật giáo
Việt Nam được
trường tồn
bất diệt” là
nguyện vọng tha thiết được người
con Phật cất lên trên quê
hương vào thời điểm ấy, trước nguy cơ bị
tiêu vong. Kỳ thực Phật giáo ở bất kỳ quốc gia nào, trường tồn không phải chỉ do đấu tranh với ngoại giáo hay thế quyền đối nghịch, dù là đấu tranh bất bạo động để tự vệ, tự tồn.
Phật giáo như
một tổ chức tôn giáo, hay giáo hội, có thể
tồn tại hay tiêu vong, hưng
thịnh hay suy yếu, tùy thuộc phần nào theo ngọn
triều của chế độ chính trị mà nó đang
hành hoạt, nhưng phần lớn và chính
yếu, là do người con Phật trong tổ chức ấy có thực hành
Chánh Pháp hay không.
Đành rằng "Bồ tát thấy
dân kêu ca, do vậy gạt lệ, xông mình vào nơi
chính trị hà khắc để
cứu dân khỏi nạn lầm than," 2 nhưng
sự dấn thân nếu không đặt trên nền tảng của lòng từ bi thì không phải
là hành
xử
của con Phật. Vì lòng từ
bi mà thực hành tất cả hạnh đức. Chính vì lòng từ
bi mà tất cả những cuộc dấn thân, đấu tranh, chuyển
hóa,
cải cách, canh tân… của
người con Phật
đối với tự thân Phật
giáo, hay đối với quốc gia, đối với nhân quần xã hội,
là cuộc đấu tranh bất bạo động, là cuộc đấu tranh để giải thoát con người ra khỏi sự tham đắm (ngũ dục), sân hận (với tha nhân
hay kẻ đối
nghịch), và cuồng vọng (đối với chân lý, lý
tưởng, nhận
thức); chứ không phải là cuộc đối
đầu giữa thế lực này với thế
lực khác. 3
Hòa thượng Thích
Quảng Đức là một trong
hàng triệu người con Phật “xông mình vào
nơi chính trị hà khắc,”
nhưng hành động của ngài, quả là hết sức
phi thường. Chỉ có
ai thực hành Chánh Pháp
một cách nghiêm cẩn, thực chứng lẽ đạo một cách sâu xa, mới
có thể làm được điều phi thường
ấy. Tôn xưng
ngài là “Bồ-tát” thật xứng đáng, và có lẽ
không tôn hiệu nào xứng hợp hơn.
Sau nửa thế
kỷ, ngày nay người ta đã rút được
rất nhiều bài học từ
cơn đại định trong ngọn lửa hồng của Bồ-tát cũng như trái tim bất diệt để lại. Trái tim ấy
đã nói lên điều gì? – Đó là lòng từ
bi, là tâm bồ-đề.
Tưởng niệm 50 năm
ngày Bồ-tát vị pháp thiêu
thân, không phải để khơi lại những đúng-sai, chánh-tà, thiện-ác… của một quá khứ vừa
đau buồn vừa bi tráng trong lịch sử Phật giáo và quê
hương Việt
Nam. Tưởng niệm,
chính là để chúng ta luôn tâm
niệm, luôn ý thức rằng, tư lương và hành trang
mà người con Phật đem vào cuộc đời, cứu độ chúng sanh, chính là
trái tim,
là lòng
từ
bi, là tâm bồ-đề. Phật
giáo, biểu tượng hình thức của Chánh Pháp,
được
trường tồn
bất diệt hay không, chỉ do một tâm ấy
mà thôi.
(Chánh pháp
19)
________________
1) Nguyên văn
trong “Lời nguyện tâm quyết” của Hòa thượng Thích Quảng Đức viết bằng chữ Nôm, đề ngày 04 tháng 6 năm 1963.
2) “Truyện số 68 trong Lục độ tập kinh tờ 36c24-25, với chủ trương "Bồ tát thấy
dân kêu ca, do vậy gạt lệ, xông mình vào nơi
chính trị hà khắc để
cứu dân khỏi nạn lầm than," (Bồ
tát đỗ
dân ai hiệu
vi chỉ huy lệ đầu thân mệnh hồ. Lệ chánh, tế
dân nạn ư đồ thán).” (Lê
Mạnh Thát, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Tập I, Từ Khởi nguyên đến thời Lý Nam Đế, NXB Thuận Hóa, Huế, 1999).
3) Thích Trí
Quang: “Tôi nguyện đem xương máu trang trải cho Phật pháp, nếu chết thì như cái chết
của chân lý trước bạo lực chứ không phải chết vì bạo lực
nầy kém bạo lực khác!”