Đặng Công Hanh
Một
thiền sư ngộ đạo, ngài Hàm Thị đã truyền dạy
"Mê nhân duyên nên
thấy sinh diệt
Ngộ nhân duyên là
hợp với vô sanh"
Hai câu kệ hàm dung một triết lý
nhân sinh sâu sắc, chỉ ra con đường giải thoát vượt qua những khổ đau
đeo bám của kiếp người. Phúc lạc màu nhiệm này lại quả cho những ai thành
tâm nỗ lực tu học hướng về Giác Ngộ. Giác Ngộ được hiểu là nhận ra thực
tánh của các pháp (sự vật, hiện tượng) hay nói cách khác là nhận ra được
đâu là thực chất của cuộc sống, đồng nghĩa với việc loại trừ được mọi
kiến chấp mê lầm trói buộc con người vào vùng xoáy của đau khổ.
Phật giáo nhìn thế giới, còn gọi là thực
tại, như được cấu thành từ các hiện tượng sự vật khác nhau đều xuất phát
từ những nguyên nhân và điều kiện biệt lập thích hợp.
Chính vì thế Phật giáo đã bác bỏ sự tồn tại của các thực thể độc lập và
đồng thời xác quyết khái niệm về mối quan hệ và qui luật nhân quả hỗ
tương: Khi A có mặt thì B có mặt,
khi A không có mặt thì B cũng không có mặt".
Phật giáo không vướng vào chủ
nghĩa hư vô, mà nhìn nhận thế giới như một dòng chảy mênh mông khổng lồ
gồm các sự kiện gắn kết với nhau, sự kiện này tham gia vào sự kiện
kia. Một sự vật hiện tượng chỉ có thể xuất hiện nếu nó nằm trong mối liên
hệ có điều kiện nhưng đồng thời đến lượt nó cũng là điều kiện, cùng hiện
diện, cùng vận hành trong tư thế biến đổi liên tục.
Đó là một thực tế, một thực tế là tất cả đều gắn kết
thành một tổng thể, như không có gì xuất hiện tách rời nhau.
Thực tại là thực tại không ngừng
vận động biến dịch, là một quá trình thể nghiệm. Cái đang là, là
quá trình để trở thành chính nó. Có thể hình dung quá trình này
trong hình ảnh một dòng sông đang trôi chảy trên đó nổi lên các mẩu hình
xoáy nước, gợn sóng luôn luôn dịch chuyển biến động. Nó nổi lên, lưu xuất từ dòng nước và biến mất cũng trên dòng nước.
Đây chính là nguyên lý Duyên sinh
có điều kiện.
Do vậy, tất cả những gì hiện hữu trong cuộc đời này đều là "pháp
Duyên sinh", chúng làm duyên cho nhau và
điều kiện hoá lẫn nhau để hình thành tan - hợp. Trên
nền tảng của nguyên lý này ta có thể hiểu
tính Vô ngã của các pháp nhân
duyên sinh - diệt trong dòng vận hành của thế giới thực tại cả tâm lý
lẫn vật lý.
Trên quan điểm Phật học: Vô ngã
đồng nghĩa với tính Không và Không là
chân lý duyên khởi của thế giới thực tại - vô ngã.
Về mặt giáo lý, tính Không được
triển khai trên giáo thuyết căn bản của Đức Phật, đặc biệt là thuyết
Duyên khởi và Trung đạo, đó là nền tảng của lý luận truy tìm những mê
lầm có trong tâm thức, loại trừ các kiến chấp mê lầm đó để đạt được Giác
Ngộ. Bồ Tát Long Thọ dạy: "Pháp
sinh khởi từ các nhân duyên nên tôi nó là Không, nó chỉ là giả danh và
cũng là Trung đạo"
"Chứng nhân sinh
pháp
Ngã thuyết tức thị
vô
Diệt
vi thị giả danh
Diệt thị Trung đạo
nghĩa".
Ở đây, tính Không, không đơn thuần
là một phát biểu về thực tại, nó còn bao hàm cả một hệ thống triết lý
sâu sắc trong sự phát triển tư tưởng Phật giáo và là một thống triết lý
giác ngộ của Đại thừa được xem là cốt tuỷ của sự giác ngộ viên mãn.
Có thể xác quyết rằng một khi đã chứng ngộ
tính Không đồng nghĩa với
chứng ngộ Niết - bàn.
Quan điểm "bất nhị" giữa Thế gian
và Niết bàn; kinh luận viết: "Niết
bàn và thế gian không có gì khác biệt. Thế gian và
Niết - bàn cũng không có gì khác biệt. Bản chất
của Niết - bàn cũng như Thế gian, không có gì sai biệt".
"Niết - bàn dữ thế
gian, vô hữu thiểu phân biệt.
Thế gian dữ Niết -
bàn, diệt vô thiểu phân biệt.
Niết - bàn
chư thực tế, cập dữ thế gian tế
Như thị nhị tế giả,
vô hào ly sai biệt."
Trung Quán luận còn nhấn mạnh
thêm: "Đức Phật vì chúng sinh, đã dựa vào hai chân lý mà nói pháp, đó là
chân lý tương đối hay Tục đế và chân lý tuyệt đối hay Chân đế.
Nếu không nhận thức được hai chân lý này thì đối với
Phật pháp sâu xa không thể lĩnh hội được.
Bồ Tát Long Thọ gọi Mê hoặc phiền
não xuất phát từ hý luận (ngôn thuyết, ý niệm hay quan niệm, hoạt dụng
của ngôn ngữ) được xem là nhân của sự chứng ngộ và trạng thái đó gọi là
Tục đế.
Trạng thái của quả chứng ngộ thật tướng hay tính Không là
Chân đế.
Chân đế được dùng để mô tả một cảnh giới cứu cánh, tuyệt đối, bất khả
thuyết đồng nghĩa với Niết - bàn, thực tại tối hậu và tối thượng.
Trong ngôn ngữ của Đại thừa nó luôn luôn bao phủ một
áo nghĩa huyền học.
Các luận sư Phật học thường dùng
khái niệm Tục đế để chỉ các hoạt động trong đời sống công ước hằng ngày
như sự phân biệt các sự vật hiện tượng, trong khi đó, khái niệm Chân đế
được dùng để chỉ bản chất đích thực của các pháp, nghĩa là bản chất của
chính nó mà không phải là những biểu tượng phô diễn chung quanh nó.
Ví dụ: Quan sát một con người
- Về phương tiện Tục đế: Nhận diện
người này cao, thấp, mập ốm, da đen trắng, đẹp xấu.v.v.
- Về mặt chân đế: Người này được
nhận diện qua hợp thể: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Đứng về mặt phương tiện mà nói: có
thể dùng ngôn thuyết để hiển thị Chân đế dưới hình thức Tục đế, nhưng
mặt khác ngôn thuyết hoàn toàn bị bác bỏ và Chân đế xem như "bất khả thuyết".
Con đường tu tập
theo quá trình: từ Tục đế đến
Chân đế rồi từ
Chân đế quay về
Tục đế, theo chỉ thị "thượng
cầu Bồ đề, hạ hoá chúng sinh" nghĩa là Chân đế không cách ly Tục đế
hay Niết - bàn ở ngay trong thế giới luân hồi.
Hơn nữa, về mặt dụng, ngài Long
Thọ đã minh thuyết tính Không như một phương tiện đối trị, khiến ta bỏ
ngay kiến chấp sai lầm về tự tính các pháp, hiểu đúng tính Không, không
là một sự Hữu có thể nắm bắt và chấp thủ.
Nó ở bên ngoài các pháp nhân duyên sinh.
·
Câu chuyện trong một
gia đình: ông chồng sau giờ làm việc kiếm
sống, thời gian còn lại thường đến chùa học tập và làm công việc Phật sự,, người vợ ông ta cảm thấy hạnh phúc.
Nhưng cũng có phụ nữ khác lại quan niệm rằng, sinh hoạt của ông chồng
như vậy là thiếu quan tâm đến cô và cô ta đau khổ. Ta thấy sự
việc sinh hoạt tại chùa của ông chồng tự bản chất không ảnh hưởng đến
tâm thế hạnh phúc hay đau khổ của hai người phụ nữ nói trên, mà chính là
do cách nhìn của họ. Phật học gọi đó là Vọng tưởng, là
mầm mống gây phiền não. Khi chúng ta còn bị chi phối bởi sự chấp chặc vào các khái niệm đối
đãi này thì vẫn chưa thể giải thoát khỏi ảo tưởng.
Pháp không có thực tính, chỉ do
danh mà hiện tướng, trên tướng mà lập danh. Hiểu được
như vậy, sự sinh khởi của tâm thức sẽ dừng lại. Đức Phật đã nói:
"Pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ". Tất cả các pháp do
vọng tưởng phân biệt, mà pháp thì không phân biệt, ấy gọi là thường trụ.
Ngài Long Thọ, trong Trung Quán đã
biện giải cho chúng ta hiểu các pháp Vô Sanh, và thực tánh các pháp là
nơi ngôn ngữ không đến được, để chúng ta giảm đi sự chấp trước, sự phân
biệt, mới mong có sự đột biến của tâm thức, mới thâm nhập được thực
tướng của các pháp.
Lục Tổ Huệ Năng nói: "Đừng
nghĩ đến thiện, cũng như đừng nghĩ đến ác, thì ngay lúc đó mới hiện ra
cái bản lai diện mục của mình".
Theo nguyên lý Duyên khởi thì vạn
pháp không có tự tính vì thường xuyên biến dịch, khi đủ duyên thì sinh
khởi, hết duyên thì đoạn diệt.
Tính cách chuyển hoá vô thường của vạn pháp chính là
tự thân của luân hồi. Do đó, Đức Phật đã truyền dạy đủ mọi pháp
môn tu học để tuỳ theo căn cơ và trình độ giác
ngộ của mỗi người, qua đó lĩnh hội được giáo pháp nhằm chiếu rọi thức
tĩnh được cái tính giác, tức là cái giác quan nội tại sâu thẳm tiềm ẩn trong bản
tính mỗi người. Một khi đạt được cái
tính giác đó con người có thể
vượt lên cái kiến giải phân biệt về mọi hiện hữu để thấy rằng vạn pháp
không thật như huyễn hoá, như mộng ảo và đã từ vô thuỷ, làm chúng ta mãi
miết thăng trầm với thế giới nội tại của chính mình, một thế giới thường
hằng, bất giác và tăm tối. Đến chừng đó con người mới nhổ hết gốc rể
những đau đớn của đời sống thể chất lẫn tinh thần mà Đức Phật đã mô tả
bằng các từ sầu, bi, khổ, não.
Con người, dường như tất cả, ai ai
cũng thiết tha mong muốn xua đuổi và viễn ly thế gian vô thường một cách
cay đắng để thay vào khát vọng được hiện hữu trong thường hằng vĩnh cửu
dù cho đó là một giấc ngủ thiên thu không mộng
mị. Những thao thức ray rức như thế đã dịch chuyển đời sống thành một
cõi điên đảo đầy mộng mị và cũng chính lúc này, lúc này đây màng sương
mù dày đặc, thâm căn cố đế từ ngàn xưa sẽ bị quét sạch bởi ánh sáng kỳ
vĩ của sự tỏ ngộ tính Không
trong tâm thức con người.
Các bậc Thiền sư đạt đạo, thường
nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta đang còn lạc lối mê mờ trong thế giới vọng,
biến hiện của tâm thức. Ngài Hàm Thị nói
"Mê nhân duyên nên
thấy sinh diệt
Ngộ nhân duyên là
hợp với vô sanh"
Hầu hết con người đều có thói quen
là khi đề cập đến vấn đề nào thì chấp thủ vấn đề đó. Lý nhân duyên là
pháp căn bản của thế gian, nhưng nếu chỉ dừng ngang ở mức độ sanh diệt
mà không thông suốt được chân tướng của nó thì con người còn vướng phải
mê lầm chấp chặc có - không dẫn đến khổ đau.
·
Câu chuyện trứng gà và con gà,
sau khi sinh ra cái trứng, thói quen ta nói con gà là duyên của cái
trứng (nhân duyên là điều kiện đầu, điều kiện chính). Nhưng trước khi có
cái trứng thì con gà cũng như con mèo, cái cây, cái ghế.v.v.... đều là
những thứ gọi là phi duyên. Như vậy, nếu dựa vào ý niệm
nhân - quả, con gà vừa là phi
duyên lúc chưa sinh ra quả và là duyên khi sinh ra quả.
Phân tích đến rốt ráo chẳng hạn
cái bàn là cây, cây cung cấp thán khí, cung cấp nước, bóng mát, thực
phẩm cho đất, côn trùng trong đất.v.v.
đều có liên hệ đến con gà và cái trứng.
Đây là giáo lý trùng trùng duyên khởi và "trong
cái một chứa đựng tất cả" của giáo lý Hoa - Nghiêm. Vậy sự
phân biệt cái này là duyên, cái kia là phi
duyên là không đúng. Duyên cũng không mà phi duyên
cũng không nghĩa là không có tự tính.
Lại nữa, nếu nói rằng trứng không
ở trong con gà (duyên) thì nó không thể sinh ra được từ duyên (con gà). Còn nói có rồi
thì đâu cần phải sinh ra nữa. Nó chỉ thay đổi
và lớn lên thôi. Vậy ta nói nó sinh ra, nhưng
thực ra bản chất là vô sinh. Sinh
là một ý niệm, sản phẩm của tâm ý mà thôi, vô sinh cũng thế.
Bồ Tát Long Thọ, đại luận sư nổi
tiếng Phật giáo đã phát triển rực rỡ các tinh hoa của phương pháp học
Phật, loại bỏ được cái nhìn nhị nguyên để giúp tiếp xúc với thực tại,
một thực tại bất khả đắc đối với những ai còn vướng bận vào những phạm
trù của khái niệm. Tác phẩm tiêu biểu là Trung Quán
luận. Ngài đã thiết lập nền tảng triết học tựa
trên kinh nghiệm "Chưa từng thấy
có bất cứ pháp nào không sinh từ nhân duyên. Thế nên tất cả các pháp
đều Không".
Ngài đã dạy vận dụng tính Không để thuyết minh các
pháp nhân duyên sinh. Chính do tính Không mà các pháp duyên khởi
hiện hành.
Điểm nổi bật của Trung Quán luận
là thuyết Nhị đế gồm; Tục đế (chân lý tương đối) và Chân đế (chân lý
tuyệt đối hay cứu cánh) được thiết lập để giải thích hai mặt của mọi
hiện hữu Có và
Không. Trung Quán luận cho rằng chính
theo Tục đế mà Đức Phật giảng rằng tất cả các pháp là
Có do nhân duyên nhưng
theo Chân đế thì tất cả các pháp đều
Không.
Theo kinh Luận Đại Trí độ: "Vì
theo Tục đế nên có và theo Chân đế nên Phá; Có là để không
rơi vào tà kiến chấp đoạn diệt; Phá là để không rơi vào tà kiến chấp
thường". Xa rời cả hai cực đoan chấp đoạn, chấp
thường là một ý nghĩa quá thâm sâu của chân lý Duyên khởi.
Vì thế nên mọi sự thể, tâm hay vật
đều do duyên sinh nên nói là vô tự tính đều không. Tuy vậy,
theo quan điểm của Trung Quán, mặc dầu các sự
thể là duyên khởi, như huyễn hoá, vô tự tính, nhưng theo Tục đế quy ước,
chúng có nhưng là giả hữu, là
giả danh giả tướng.
·
Câu
chuyện thứ ba: Chúng ta cảm thấy thú vị với trò chơi về hình ảnh
nổi trong không gian ba chiều. Cũng từ một cách quan sát, mà khi ta
lay động vật chơi, một loạt các hình ảnh phẳng
lặng bỗng nhiên thay đổi trở thành lâu dài thành quách tráng lệ đầy đủ
mọi thứ như đang ở không gian nổi ba chiều. Vậy hình
ảnh nào là thực, hình ảnh nào là không thực.
Thế giới ta đang sống đây có phải là hình nổi của
tự tâm chúng ta không?
Tương tự như một hình thể
trong không gian ba chiều, khi chiếu lên mặt phẳng hai chiều ta được một
cái bóng. Tuỳ vào góc độ chiếu ta có cổ bóng lớn, nhỏ dài, ngắn,
tuy vậy ta không nên quy kết cái bóng là có hay không, là to hay nhỏ...
điều này quả vô nghĩa. Cũng vậy, ta đang sống hàng
ngày với những pháp sai biệt mà thực chất là cái
bóng của thực tại bất khả phân.
Ta không thể nói pháp này là có,
là không, là sanh, là diệt. Đó là những thiên kiến sai
lầm khi đối chiếu với thực tại. Cái mà ta cho
là thật tánh của pháp, thực ra nó chỉ được gầy dựng nên do sự tương quan
đối đãi với cái khác mà thôi.
·
Câu
chuyện thứ tư: Ta nhận thức được các phép nhờ vào các căn như
tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Dựa vào các kết quả
ghi nhận từ các căn mà chúng ta có nhận thức về trần cảnh. Tuy vậy các
căn lại có sự hạn chế của nó.
Chẳng hạn trường hợp của đôi mắt:
ta chỉ nhìn thấy ánh sáng có độ dài sóng từ 0,4
micron đến 0,8 micron. Ngoài dãi đó ta không thấy được.
Mặt khác, với những vật có một độ
phân giải nhỏ hơn mức tối thiểu, mắt sẽ không ghi nhận được vật đó.
Tương tự với những sự kiện mà thời gian xuất hiện của
nó ngắn hơn một nửa tối thiểu, mắt cũng không ghi nhận được.
Do các hạn chế này, thay vì ghi
nhận được pháp là một tiến trình liên tục, mắt chỉ ghi nhận một
phần đoạn của tiến trình này.
-
Về mặt không gian: do những phần nhỏ hơn độ nhạy của mắt bị loại
trừ, các tương quan chằng chịt với thế giới bao quanh quá nhỏ nhiệm, các
căn không ghi nhận được nên các
phần đoạn đó xuất hiện thành một hình thể biệt lập có ranh giới với
thế giới xung quanh và chúng ta gọi đó là một Vật.
-
Về mặt thời gian: Bản chất của một vật là
tiến trình nên nó luôn luôn
chuyển biến, nhưng do sự nhận biết các căn quá thô thiển nên sau một
thời gian nào đó ta mới nhận ra được sự thay đổi, nên trong phần đoạn
đó, vật xem như bất biến.
Tóm lại, từ cảm giác có một ranh
giới trong không gian và dường như bất biến trong một thời gian, chúng
ta cho rằng đó là vật có thực, một cá thể riêng biệt và tập hợp các cá
thể, các vật đó tạo thành thế giới quanh ta.
Rõ ràng sự chấp chặc ý niệm về vật hoàn toàn bị phá vỡ.
Vậy Sắc chẳng phải Sắc vì tự thân
nó là tiến trình khó nắm bắt. Không chẳng
phải Không vì nó biểu hiện quan hệ chằng chịt với cái không phải nó.
Sắc và Không nương nhau mà thành lập, chỉ là cái bóng
của thực tại.
*
*
*
Trong tâm trí chúng ta hãy còn in
dấu câu chuyện lịch sử về Vua Thái Tông lên núi Yên Tử để cầu làm Phật
ghi trong Thiền Tông chỉ nam tự:
- Vua nói: "Trẫm đương trẻ thơ, mẹ cha vội mất, trơ
vơ đứng trên dân chúng, không chỗ tựa nương, lại nghĩ sự nghiệp các Đế
vương thuở trước, thay đổi bất thường, cho nên tìm đến núi này, chỉ muốn
được thành Phật chứ không cầu gì khác?
- Sư nói: Trong núi
không có Phật, Phật ở ngay trong lòng. Lòng lặng lẽ mà sáng suốt, đó
chính là chân Phật. Nay, nếu Bệ hạ giác ngộ được điều đó, thì lập tức
thành Phật, không cần khổ tâm tìm kiếm bên ngoài"
Chỉ có thế, thật đơn giản,
lòng lặng lẽ mà sáng suốt đã là Phật, lúc nào Phật lại không hiện hữu,
đâu đợi đến quán sâu xa
"Các pháp do duyên
sanh
Các pháp do duyên
diệt
Duyên sanh các pháp
sanh
Duyên diệt các pháp
diệt"
(Thượng sỹ Tuệ
Trung)
Các kinh luận dạy: Bởi vì, chấp
sinh diệt là một mê lầm, chấp không sinh diệt cũng là một mê lầm, cả hai
cách chấp đều mê lầm.
Chỉ với cái nhìn tương đối về bản thân và về vạn hữu
thì ắt thành Phật.
Thật đơn giản, tuy nhiên ta chỉ có
thể làm được điều này bằng chính sức mạnh
tịnh hoá nội tâm của mình, đó
là sức mạnh của xả ly.
Xả ly là sự buông bỏ, không chắp giữ nỗi
ám ảnh được phóng chiếu trong tâm thức, đó là được, mất, vui, buồn, khen
chê, danh vọng và không danh vọng. Bao lâu có đời sống được xả ly, thì sẽ hiện khởi thực tại vô niệm,
nó vốn không cần đến sự hiện diện của cái bản ngã cá thể. Hãy
lắng nghe Tam Tổ Tăng Xán dạy:
"Mê, thì sinh lòng
động, tịnh
Ngộ, thì chẳng ghét
thương
Việc thua được hay
thị phi
Hãy nhất thời buông
bỏ quách"
(Dịch Nguyễn Duy
Cần)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/
Trung Quán luận: Bồ Tát Long Thọ
Dịch: Chánh Tấn Tuệ - NXB Tôn
giáo 2001.
2/
Nhân quả đồng thời: Hồng Dương -
Nguyễn Văn Hai
NXB Phương Đông 2008
3/
Tinh hoa Đạo học phương Đông
Nguyễn Duy Cần - NXB
Trẻ 2013 .