Ðược
biết rằng nàng là một cô gái xinh đẹp tuyệt trần, con của một thương nhân giàu
có ở kinh thành Vương Xá, được học hành chu đáo nhưng phải lòng một tên cướp
đang bị dẫn ra xử trảm ở pháp trường. Nàng tên là Bhaddā và tướng cướp tên là
Sattuka (1).
Vì thương con,
cha mẹ nàng phải hối lộ một ngàn đồng tiền vàng để nhờ người ta đánh tráo tên
cướp, mang về nhà và sắp đặt một cuộc hôn nhân. Tiểu thư Bhaddā và chàng trai
Sattuka bắt đầu sống chung với nhau trong cảnh vinh hoa phú quý. Chẳng được bao
lâu, Sattuka khởi lên ác tâm, muốn giết nàng để lấy đi tất cả đồ nữ trang quý
giá. Hắn lập mưu nói là muốn làm một cuộc lễ tạ ơn đến vị thần bổn mạng hộ trì,
đấy là “ngọn núi thiêng của những tên cướp” (2) Hôm kia, sau khi sắm sửa lễ vật
trọng thể, hắn dẫn nàng lên núi cao. Tại đây, Sattuka lột tất cả đồ trang sức
của Bhaddā rồi định giết nàng. Hắn đã nói thật dã tâm của hắn. Chán nản người
chồng ác đức, tương kế tựu kế, nàng giả vờ đưa mắt đắm đuối nói:
- Tôi yêu chàng
lắm, chàng biết không?
- Ta biết!
- Chàng bảo chết
thì thiếp sẽ chết. Nhưng xin chàng cho thiếp một đặc ân là được ôm hôn chàng lần
cuối cùng!
- Được rồi!
Nhanh lên!
Thế rồi, Bhadda
ôm hôn Sattuka trước mặt, ôm hôn sau lưng rồi bất ngờ, nàng đẩy tên cướp xuống
vực sâu tan xác.
Chư thiên, thọ
thần trên núi thấy tên tướng cướp táng tận lương tâm, lại thấy trí thông minh
đối trị kẻ ác một cách nhanh nhạy của nàng, họ thốt lời ca ngợi rằng:
“- Đừng có nghĩ
rằng
Đàn ông khôn
ngoan!
Phụ nữ thế gian
Khôn ngoan đâu
kém!
Nơi này, nơi
khác
Phụ nữ thế gian
Thông minh, lanh
lợi
Đừng có nghĩ
rằng
Đàn ông trí mưu
Hơn hàng phụ nữ
Biết rõ lợi, hại
Suy tính thiệt
hơn
Phụ nữ hành động
Nhanh như sấm
giật!” (3)
Ðã thấm thía
tình duyên phản trắc, tiểu thư Bhaddā quăng đồ nữ trang xuống vực, xé rách y
phục sang trọng, khoác một mảnh vải tìm đến một nhóm nữ đạo sĩ khổ hạnh thuộc
phái Nigaṇṭha.
Các nữ đạo sĩ
hỏi nàng:
- Cô muốn xuất
gia khổ hạnh bậc gì?
- Thưa, bậc
thượng!
Thế là thay vì
cạo tóc bằng những bẹ nứa, người ta nhổ từng sợi tóc cho nàng, máu chảy thành
dòng. Các nữ đạo sĩ lấy bùn đất dơ uế trát lên y áo của nàng, trao cho một cái
bát bằng đất rồi dạy giáo pháp, tu tập, thiền định… Không bao lâu sau, cô gái
bây giờ là nữ đạo sĩ đã chứng tỏ sự thông minh kỳ đặc, một ý chí sắt thép, một
đầu óc siêu việt, một lý trí sắc bén nên sớm được đồng đạo nể phục. Người ta
muốn nàng lên đường để xiển dương giáo pháp, đem chuông trống đi đánh xứ người.
Từ đấy, nữ đạo sĩ sống đời ta-bà vô trú, không bao lâu đã nổi tiếng khắp nơi về
tài hùng biện. Vì tóc của Bhaddā sau khi bị nhổ, mọc lên lại thì nó xoăn tít nên
mọi người thường gọi nàng là Kuṇḍalakesā (4), nữ
đạo sĩ “tóc quăn”.
Thế rồi, từ quốc
độ này sang quốc độ khác, từ thành phố này sang thị trấn nọ, nữ đạo sĩ Kuṇḍalakesā lang
thang không có trụ xứ, sống đời ta bà khổ hạnh, người ta lại gọi nàng bằng một
cái tên khác nữa là Jambuparibbājikā (hành giả châu Diêm-phù-đề) (5). Đặc biệt
là nữ đạo sĩ Kuṇḍalakesā đã trổ
tài vô địch trong những cuộc tranh luận về các môn triết học, tư tưởng trong và
ngoài truyền thống Vệ Đà; giương cao ngọn cờ minh triết cho một môn phái khổ
hạnh, chủ trương diệt dục bằng lối sống khắc kỷ. Ðến ở đâu, nữ đạo sĩ cắm lên
đấy một nhành liễu xanh. Nhưng rồi, đến một lúc nào đó, nhành liễu này khô đi
lại được thay bằng một nhành liễu mới, chẳng có ai dám nhổ nhành liễu để tranh
luận với nàng nữa!
Hôm nọ, bước
chân ta-bà ấy đến kinh thành Sāvatthi (Xá Vệ), nữ đạo sĩ Kuṇḍalakesā cắm một nhành liễu ngay trước cổng thành. Một số
trẻ em tò mò vây quanh…
Tôn giả
Sāriputta, sau khi đi khất thực, trên đường trở về tịnh xá, thấy đám trẻ và
nhành liễu, ngài dừng chân:
- Của ai đấy,
các con?
- Của nữ đạo sĩ
tóc quăn, thưa trưởng lão.
- Nữ đạo sĩ à?
- Dạ phải, nữ
đạo sĩ tuy ăn mặc xấu xí, tóc quăn, nhưng đẹp lắm.
Tôn giả nói:
- Vậy thì các
con hãy nhổ nhành liễu ấy và cắm ngược trở xuống!
- Chúng con sợ!
- Không sao, có
ta đây! Khi nữ đạo sĩ hỏi, các con bảo là đệ tử của đức Thế Tôn đấy!
Ðám trẻ reo hò,
chúng đến, không phải là cắm xuống hay nhổ đi mà là dẫm đạp lên nhành liễu, đá
tung bụi, bẻ vụn nhành liễu, và quăng vất tơi tả đó đây.
Nữ đạo sĩ tóc
quăn đi khất thực trở về thấy vậy bèn quát:
- Ai cả gan như
thế?
- Không phải là
chúng con mà là vị trưởng lão cao quý của chúng con, ngài đang đứng kia kìa!
Quay nhìn trưởng
lão, nữ đạo sĩ Kuṇḍalakesā thấy một sa-môn tướng mạo đoan nghiêm, thần sắc
thanh thoát và trầm tĩnh. Chợt dưng nàng cảm nghe hơi chột dạ. Nàng chưa biết
ai, thấy ai lại toát ra được cái tự chủ và tự tin như thế.
- Có phải ông là
đệ tử của sa-môn Gotama đấy không?
- Vâng, thưa nữ
đạo sĩ!
- Ông chấp nhận
một cuộc tranh luận không khoan nhượng chứ?
- Vâng, thưa nữ
đạo sĩ!
- Ông có biết
rằng chấp nhận tranh luận như thế là một sự mạo hiểm? Ông mà thất bại thì danh
dự, tiếng tăm của ông và cả sa-môn Gotama sẽ biến thành mây khói?
- Tôi biết rõ,
thưa nữ đạo sĩ!
Nhìn xung quanh,
nữ đạo sĩ nói với mọi người:
- Vậy thì chiều
nay, tại trú xứ Jetavana của ông sa-môn Gotama, sẽ có một cuộc tranh luận về
giáo pháp. Thành phố này, ai là người có tai, có óc thì hãy đến đấy mà nghe!
Tôn giả
Sāriputta khiêm tốn:
- Ðúng vậy,
chiều nay, tại cổng tịnh xá Jetavana (Kỳ Viên), kẻ ngu hèn này xin được hầu đáp
nữ đạo sĩ, một biện sĩ lỗi lạc!
Không mấy chốc,
câu chuyện đồn đãi khắp cả thành Sāvatthi (Xá Vệ). Buổi chiều, người ta vây
quanh khu đất trống trước cổng tịnh xá Jetavana. Không những là dân chúng, cư sĩ
các tôn giáo mà còn có bóng dáng hàng trăm đạo sĩ
của nhiều giáo
phái, hàng trăm vị tỳ-khưu đồng tham dự nữa.
Người ta bàn tán
với nhau:
- Trên đời này,
có ai tranh luận hơn vị trưởng lão đệ nhất của giáo hội đức Tôn Sư?
- Thật là một
con đom đóm tí tẹo lại muốn khoe ánh sáng với mặt trời!
- Biết đâu có
một kỳ nhân, dị sĩ xuất hiện?
- Eo ôi! Ðúng là
đem trống đánh trước cửa nhà sấm!
Ðám đông chợt
yên lặng khi nữ đạo sĩ tóc quăn xuất hiện. Mặc dầu y áo xộc xệch, vấy bẩn bùn
đất nhưng cũng không che giấu được vẻ đẹp tuyệt trần của nàng.
Trong lúc ấy,
tôn giả Sāriputta đang trình bày với đức Phật, việc nữ đạo sĩ tóc quăn đang muốn
tranh luận, khiêu khích ở bên ngoài cổng Kỳ Viên tịnh xá, muốn xin sự chỉ giáo
của ngài.
Đức Phật nói:
- Cô ta chính là
đệ tứ công chúa Bhikkhudāyikā thời đức Phật Kassapa, ông có hướng tâm đến không?
- Vâng, có ạ!
- Ông có duyên
với cô ta, hãy đưa cô ta vào dòng!
- Vâng, bạch đức
Tôn Sư !
Đức Phật nói
tiếp:
- Vậy thì ông đã
biết rõ, trong bảy cô công chúa có duyên căn sâu dày thuở ấy, hiện tại đã có mặt
tỳ-khưu-ni Khemā, tỳ-khưu-ni Uppavaṇṇā, tỳ-khưu-ni Dhammadinnā, đại thí chủ Visākhā, và cô này
là Bhadda-Kuṇḍalakesā; một thời gian ngắn tới đây sẽ xuất hiện Paṭācārā và Kisā-Gotamī nữa là đủ. Ông hãy đi làm công việc
của mình đi, con trai!
- Tâu, vâng,
bạch đức Tôn Sư !
Sau đó, tôn giả
Sāriputta trang nghiêm, từ tốn từ trong tịnh xá bước ra.
Mọi người hồi
hộp, yên lặng.
Nữ đạo sĩ Kuṇḍalakesā cất
tiếng hỏi:
- Ngài lấy tư
cách cá nhân mà tranh luận hay lấy tư cách giáo hội ông sa-môn Gotama mà tranh
luận?
- Là cá nhân,
thưa nữ đạo sĩ! Tư cách giáo hội thuộc về đức Tôn Sư. Không ai ở trên đời này có
thể đại diện một đức Chánh Ðẳng Giác, thưa nữ đạo sĩ!
- Thế cũng được.
Bây giờ cho tôi được hỏi đây. Ông sa-môn cần những câu hỏi có giới hạn hay không
có giới hạn?
Tôn giả
Sāriputta xót thương cho sự cống cao, ngã mạn của nàng nên nói:
- Ðối với tôi
thì không thành vấn đề. Nhưng đối với nữ đạo sĩ thì nên đặt những câu hỏi sở
trường nhất của nàng, có lợi nhất cho nàng!
- Tại sao?
- Như vậy sẽ
giúp ích cho nữ đạo sĩ hơn. Vì tất cả mọi triết học, tư tưởng trong và ngoài
truyền thống Vệ Đà tôi đều biết rõ, thấy rõ; nhưng về giáo pháp của đức Tôn Sư,
nữ đạo sĩ không hề hay biết, dầu là một tí chút ở ngoài da!
Ðám đông cười ồ!
Chỉ mới câu nói đầu tiên của trưởng lão, dường như đã minh định được sự hơn thua
của cuộc tranh luận.
Nữ đạo sĩ Kuṇḍalakesā thấy
mình bị xem thường nên tức giận quát gắt:
- Thôi đừng
nhiều lời, ông sa-môn, hãy nghe ta hỏi đây!
Tôn giả ân cần
nhắc nhở:
- Ðừng nôn nóng,
hãy bình tĩnh! Hãy đặt những câu hỏi nào mà nữ đạo sĩ cảm thấy là hóc búa nhất
về Vệ Đà và không Vệ Đà, cả về thiên văn, địa lý, đạo đức, thuật số, luận lý,
ngôn ngữ… thế học, đạo học… hoặc về tất cả những gì mà đầu óc uyên bác của nữ
đạo sĩ đã học hỏi được, đã do tư duy và trí năng thâu lượm có vẻ tâm đắc nhất!
Kinh sách không
ghi lại nội dung chi tiết của cuộc tranh luận lý thú này, chỉ nói là nữ đạo sĩ
đã cật vấn tôn giả Sāriputta một ngàn câu hỏi. Và không biết thời gian trải qua
mấy ngày. Thật là kinh khiếp! Từng câu hỏi một, vị đệ nhất đại đệ tử như một nhà
thông thái đã giải thích, phân tích, đi từ ngoài vào trong, đi từ trong ra
ngoài; không những trả lời rất đầy đủ những câu hỏi của nàng mà còn làm cho nàng
thấy rõ kiến thức nông cạn, hời hợt của mình nữa.
Nữ đạo sĩ say mê
lắng nghe. Tất cả những ngạo khí thảy đều tiêu tan. Mọi sự khôn ngoan, sắc bén
của nàng đều thui chột. Mọi kiến thức uyên bác của nàng rõ là trò trẻ con đối
với tôn giả.
Cuối cùng, tôn
giả hỏi:
- Còn câu hỏi
nào nữa không, thưa nữ đạo sĩ?
Nữ đạo sĩ im
lặng.
Tôn giả cất lời
dịu dàng:
- Một ngàn câu
hỏi nữ đạo sĩ đã hỏi và tôi đã đáp; vậy bây giờ tôi hỏi nàng nhé, một câu duy
nhất thôi!
- Vâng, thưa
trưởng lão.
- Thưa nữ đạo
sĩ! Nữ đạo sĩ hỏi huyên thuyên trên trời dưới đất. Bây giờ là câu hỏi của tôi:
Gì là “Một”? Nói đi, nữ đạo sĩ! “Một” là gì nào?
Câu hỏi của tôn
giả thật là lạ lùng không ai ngờ được. Ðại chúng sau một hồi lặng ngắt, chợt
cười reo, thú vị. Nữ đạo sĩ bàng hoàng. Thời gian trôi qua. Nữ đạo sĩ toát mồ
hôi! Mà tượng đá cũng toát mồ hôi!
Tôn giả
Sāriputta chậm rãi thả từng tiếng một:
- “Một” mà nữ
đạo sĩ cũng không biết thì đòi biết cái gì? Thế mà nữ đạo sĩ đòi biết trên trời
dưới đất, đòi học hiểu tất cả tư tưởng, triết học trên đời này? Giả dụ như bây
giờ tôi hỏi dễ hiểu hơn về “Cái Một” ấy? “Cái Một” gì, chỉ “Một Pháp” (6) thôi,
mà tất thảy chúng sanh đều cần đến nó, nếu không có nó thì không thể tồn tại
sinh mệnh?
Thời gian trôi
qua…
- Tôi cũng chịu,
tôi không trả lời được.
- Thế bây giờ
tôi hỏi một “Cái Một” khác nữa, dễ dàng hơn nhiều! Đấy là “Cái Một” tối thượng,
“Cái Một” (7) như là thực thể cuối cùng, hay là “Một Pháp” cuối cùng, tuyệt đối,
“Cái Một” ấy là gì nào, thưa nữ đạo sĩ?
- Tôi cũng chịu
luôn.
- Thế tôi có thể
nói rõ hơn một chút, là “Cái Một” này nó sẽ chấm dứt tất thảy đau khổ và phiền
não!
- Tôi chịu thua.
Tôi hoàn toàn chịu thua rồi!
Tôn giả
Sāriputta mỉm cười:
- Cảm ơn nữ đạo
sĩ đã trả lời rất thành thật. Biết nói biết, không biết nói không biết, đấy
chính là tư cách của một trí nhân trên đời này. Tôi rất kính trọng và ngưỡng mộ.
Tuy nhiên, nếu nữ đạo sĩ từ bỏ giáo pháp ấy, cái giáo pháp rỗng không và phù
phiếm của nàng, xuất gia dưới chân của đức Tôn Sư, rồi nàng sẽ biết cái “Một” ấy
là gì.
Nghe vị sa-môn
kia coi mình như trí nhân, nữ đạo sĩ cảm nghe rất mát ruột, và cũng biết ông ta
nhận xét đúng người, những vì bản tính cao ngạo cố hữu, bắt cô chưa chịu khuất
phục ngay, cái tính cứng đầu chưa dịu lại được. Cô nói:
- Nhưng tôi chỉ
muốn biết cái “Một” ấy là gì ngay từ bây giờ thôi?
- Hãy trở thành
một vị tỳ-khưu-ni, hãy học hỏi giáo pháp thoát khổ; hãy tu tập, hành trì giáo
pháp thoát khổ, sau đó, nữ đạo sĩ sẽ tự trả lời cho mình về “Cái Một” ấy.
- Vậy hãy cho
tôi gia nhập ni chúng!
Thế là cuộc
tranh luận chấm dứt. Khi được biết rằng người luận thắng nàng là đại đệ tử của
đức Phật, bậc tướng quân Chánh Pháp, vị thượng thủ của giáo hội, nữ đạo sĩ không
còn thấy xấu hổ nữa. Sau đó, tôn giả Xá Lợi Phất gởi nữ đạo sĩ Kuṇḍalakesā đến đức Phật (8). Thấy duyên cơ sâu dày, lợi căn,
lợi tuệ của nữ đạo sĩ, đức Phật chỉ thuyết tóm tắt nhưng cốt lõi về uẩn, về xứ,
về giới, về bất tịnh, về vô thường, về dukkha, về vô ngã (9).
Nữ đạo sĩ đắc
pháp nhãn, nàng quỳ gối đi đến gần đức Phật hai tay chắp lên đỉnh đầu vô cùng
tôn kính để xin được xuất gia.
Đức Phật chỉ nói
đơn giản:
“- Này Bhaddā!
Hãy đến đây!” (Ehi Bhadde!) (10)
Thế là nữ đạo sĩ
đã trở thành tỳ-khưu-ni, bây giờ với tên gọi đầy đủ là Bhadda-Kuṇḍalakesā, sau đó nàng về sống ở Ni viện.
Cũng ngay trong
ngày hôm ấy thôi, trong lúc rửa chân, nàng thấy nước tan chảy rồi thấm dần trong
đất, tư duy chơn chánh phát sanh: “Rồi ra các ‘hành’ cũng tương tự như thế!” Tìm
một chỗ yên vắng, nàng minh sát nội tâm, thấy rõ các uẩn sinh diệt ra sao, vô
thường, vô ngã ra sao; và nàng đã nhanh nhạy đắc quả A-la-hán cùng với các thắng
trí.
Trong không gian
tịch mịch, vắng lặng cả nội tâm và ngoại cảnh, đêm ấy, tỳ-khưu-ni Bhadda-Kuṇḍalakesā soi chiếu lại từng cuộc đời, từng mảnh đời, từng
cảnh giới, những hoan lạc, những đau thương, những nụ cười, những nước mắt…
Trong mù sương chập chờn, bóng dáng nàng hiện ra, nửa có nửa không, kiếp thú,
kiếp người, công chúa, hoàng hậu, nông dân, kẻ nô lệ đói nghèo, kiếp ngạ quỷ,
kiếp thọ thần, kiếp chư thiên, phạm thiên… chúng lật ra rõ ràng trước mắt như
những lượn sóng nhấp nhô vô tận giữa đại dương sinh tử.
“- Ôi! Đã từ xa
xăm hằng trăm kiếp quả địa cầu, hóa ra tôi là một cô gái thật xinh đẹp, là tiểu
thư của một thương gia đại phú, tỏa sáng xung quanh đủ loại châu báu hiếm có
trên đời. Duyên may làm sao tôi lại có đức tin, và tôi đã quỳ dưới chân, phủ
phục dưới chân và nương tựa đời mình nơi đức Chánh Đẳng Giác Padumuttara!
Hôm nọ, đức Đại
Hùng tuyên dương một tỳ-khưu-ni xinh đẹp, tên là Subhā; và ngài bảo vị ấy là tối
thắng trong tất cả Ni chúng có “thắng trí nhạy bén” (khippābhiññā) nhất!
Hoan hỷ vô cùng
mà cũng ngưỡng mộ công hạnh của vị tỳ-khưu-ni ấy vô cùng; tôi lại đặt bát lớn,
cúng dường lớn cả tứ sự nữa, sau đó, tôi đã phát nguyện thành lời, mong sau này
tu tập để có được thành quả mỹ mãn như vị tỳ-khưu-ni Subhā kia vậy!
Đức Oai Âm mỉm
cười như một vầng trăng sáng dịu, tiếng nói của ngài như rót nước ngọt của cõi
trời vào tai tôi vậy:
“- Này cô gái
hiền lành! Ước nguyện ấy rồi sẽ được tựu thành do công đức phước quả mà con đã
cúng dường Tam Bảo với tâm tịnh tín trong sạch và sáng ngời như maṇi châu. Như Lai đọc được như thế. Rồi con sẽ được hạnh
phúc, an lạc trong nhiều kiếp sống, và cuối cùng sẽ viên mãn niềm vui siêu thế
Niết-bàn.
Nghĩ hơi nhắm
mắt một lát rồi đức Tôn Sư lại mở mắt ra, nói tiếp:
“- Một trăm đại
kiếp về sau, thời gian không dài lắm mà cũng không ngắn lắm, sẽ có một đức Chánh
Đẳng Giác ra đời, vị ấy thuộc dòng dõi đức vua Okkāka, tộc Sakyā, họ Gotama sẽ
xuất hiện trên thế gian. Và rồi con sẽ trở thành một nữ Thanh Văn, sẽ được tuyên
dương là ‘đệ nhất về thắng trí sắc bén’ trong giáo pháp của đức Đạo Sư ấy!”
Đúng như đức Đại
Giác tuyên bố. Sau kiếp sống ấy, tôi không còn rơi vào bốn khổ cảnh mà cũng
không còn rơi vào cõi người tầm thường hay đói khổ nữa. Các cảnh giới chư thiên,
tôi thường được làm hoàng hậu của vị thiên vương ở đấy. Nó kế tiếp nhau. Ban
đầu, tôi hóa sanh lên cõi trời Đao Lợi, sau đó là Đẩu Suất, rồi Dạ Ma, rồi Hóa
Lạc Thiên, rồi Tha Hóa Tự Tại. Khi sinh xuống cõi người thì tôi thường được làm
hoàng hậu của các vị quốc vương danh vọng lớn và quyền lực lớn.
Nhờ nhân duyên
gieo trồng nhiều phước báu, tôi lại gặp được đức Chánh Đẳng Giác khác nữa, đó là
đức Thế Tôn Kassapa! Thuở ấy tôi lại là một vị công chúa con đức vua Kikī, kinh
thành Bārāṇasī, quốc độ
Kāsi; và phụ vương tôi lại là đại thí chủ của đức Phật cùng tỳ-khưu Tăng Ni đại
chúng mấy chục ngàn vị.
Ồ! Thật là lạ
lùng! Dầu là bèo dạt hoa trôi trong những dòng sông sinh tử các cõi, nhưng rồi
cũng có nhân duyên hội ngộ một cách rất lạ lùng, kỳ diệu. Tôi muốn nhắc đến
những chị em của tôi. Số là tôi có bảy chị em. Tuần tự từ công chúa trưởng đến
công chúa út là Samanī, Samaṇaguttā,
Bhikkhunī, Bhikkhudāyikā, Dhammā, Sudhammā và Saṅghadāyikā. Trong đó tôi là thứ tư, tên là Bhikkhudāyikā!
Phụ vương tôi là một đệ tử thuần thành của Tam Bảo nên đặt tên cho chị em tôi
thật là “kỳ cục” mà cũng thật huyền diệu. Tại sao vậy? Con gái sao lại không lấy
sen, lấy sāla, lấy lài, lấy chiên đàn, lấy sắc, lấy hương hoặc lấy những đức
tính dịu hiền của nữ tính mà đặt tên? Ngẫm ngữ nghĩa mà xem. Tuần tự tên gọi từ
đầu đến cuối, có nghĩa là: Nữ sa-môn, Gìn giữ sa-môn (hạnh), Tỳ-khưu-ni, Nữ thí
chủ (của) tỳ-khưu, Pháp, Thiện pháp và cuối cùng là nữ thí chủ (của) Tăng-già!
Điều lạ lùng khác nữa là cả bảy chị em tôi đều có đức tin vững chắc, đều nung
nóng ý chí thiêng liêng muốn sống đời phạm hạnh; nhưng xin xuất gia thì phụ
vương tôi không cho, cương quyết không cho. Có lẽ phụ vương không có một mụn
hoàng tử nào!? Có lẽ tên những người con gái là đã đầy đủ sa-môn, nữ sa-môn, giữ
gìn hạnh sa-môn, nữ thí chủ, pháp, thiện pháp, hộ độ Tăng-già ở trong cung điện
rồi chăng!? Không sống đời xuất gia phạm hạnh được thì chị em chúng tôi cũng
cương quyết sống đời phạm hạnh tại gia, suốt đời thọ trì bát quan trai giới, bố
thí, cúng dường, nghe pháp, học pháp và tu tập. Như vậy là suốt hai ngàn năm,
chị em chúng tôi đã sống độc thân, chỉ biết có việc kiến thiết, xây dựng cốc
liêu cùng hộ độ đức Phật và Tăng chúng mà thôi!
Sau kiếp sống
ấy, cả bảy chị em chúng tôi đều hóa sanh lên cõi trời Đẩu Suất (11). Hưởng hết
phước báu của cõi trời, chị em chúng tôi sinh xuống châu Diêm-phù-đề và thai
sinh rải rác trong các quốc độ, hiện đều đang có mặt ở đây.
Và dường như ai
cũng tương đối mỹ toàn về sắc đẹp nhưng phước báu vật chất thì có khác nhau do
biệt nghiệp của từng người. Hiện tại, kẻ trước người sau đều thành tựu viên mãn
ước nguyện xưa cũ cả. Rồi ai cũng được trả lại phẩm vị đúng như hạnh nguyện của
mình.
Xem nào! Đệ nhất
công chúa Samanī (Nữ sa-môn) thuở xưa, bây giờ đã là nữ Thinh Văn Khemā, đệ nhất
trí tuệ trong hàng Ni chúng. Đệ nhị công chúa Samaṇaguttā (Gìn giữ
sa-môn hạnh) thuở xưa, bây giờ đã là nữ Thinh Văn Uppavaṇṇā, đệ nhất thần
thông trong hàng Ni chúng. Đệ tam công chúa Bhikkhunī (Tỳ-khưu-ni) thuở xưa, rồi
sẽ trở thành nữ Thinh Văn Paṭācārā đệ nhất về trì luật. Đệ tứ công chúa Bhikkhudāyikā
(Nữ thí chủ của tỳ-khưu) thuở xưa, bây giờ là ta đây, là nữ Thinh Văn Bhadda-Kuṇḍalakesā, đệ nhất về thắng trí nhạy bén. Đệ ngũ công chúa
Dhammā (Pháp) thuở xưa, rồi sẽ trở thành nữ Thinh Văn Kisā-Gotamī, đệ nhất về
hạnh mặc y thô tháo. Đệ lục công chúa Sudhammā (Thiện pháp) thuở xưa, kiếp này
đã là nữ Thinh Văn Dhammadinnā, đệ nhất về thuyết pháp. Đệ thất công chúa Saṅghadāyikā (Nữ thí chủ của Tăng-già) thuở xưa, đời này đã
trở thành vị đại thí chủ Visākhā đúng y chang là vậy!
Ôi! Nhiệm mầu
thay là sự sắp đặt của nhân, duyên, quả và báo; và cũng nhiệm mầu thay khi bụi
bặm phiền não không còn nữa! Khung trời giải thoát thật là xa rộng không thấy mé
bờ!”
Sáng ngày hôm
sau, tỳ-khưu-ni Bhadda-Kuṇḍalakesā tìm đến
đảnh lễ đức Phật với một cảm xúc siêu thoát, như là một người con gái tri ân vị
cha lành siêu thế.
Đức Thế Tôn biết
chuyện gì xảy ra nên ngài mỉm nụ cười của pháp rồi đọc lên một bài kệ dị giản
chỉ để mọi người nhắm đến cái thực mà tu tập:
“- Dẫu cho ngôn
ngữ trăm ngàn
Nói lời vô ích
chỉ bàn suông thôi
Tốt hơn, ít chữ,
ít lời
Nghe xong tịnh
lac, sống đời vô ưu!” (12)
Tỳ-khưu-ni
Bhadda-Kuṇḍalakesā không
biết nói gì, chỉ xác nhận một sự thật mà đức Phật đã giáo giới:
- Đệ tử cảm
nghiệm rất rõ về điều đó, bạch đức Thế Tôn! Đệ tử đã được sinh ra trong giáo
pháp vô tỷ!
Và khi đến đảnh
lễ dưới chân tôn giả Sāriputta thì nàng xiết bao cảm kích, nói rằng:
- Nếu hôm ấy, đệ
tử biết được trên đời có một giáo hội minh triết với những con người minh triết
như thế này thì đệ tử sẽ không dám đặt ra một câu hỏi nào cả!
Tôn giả
Sāriputta mỉm cười:
- Này Bhadda-Kuṇḍalakesā! “Cái một bất tử” ấy là gì nào?
Vị tân Thánh Ni
lặng lẽ mỉm cười.
Tôn giả lại hỏi
vui:
- Nó trụ chăng?
- Thưa, không
phải!
- Nó trôi chăng?
- Thưa, không
phải!
- Nó vừa trụ vừa
trôi chăng?
- Thưa, không
phải!
- Nó không trụ,
không trôi chăng?
- Thưa, không
phải! Bốn phạm trù tứ cú ấy đều chẳng nhằm!
- Cảm ơn
Bhadda-Kuṇḍalakesā! Cô chắc
chắn sẽ trở thành là một bậc thiện thuyết trong Ni chúng!
Và đúng là như
vậy! Không những thắng trí sắc bén mà còn ngôn ngữ biện tài, tỳ-khưu-ni
Bhadda-Kuṇḍalakesā đã làm cho Ni giới nổi tiếng, sáng rỡ trong suốt
năm mươi năm tại thế, khi gót chân của nàng lang thang từ Aṅga, qua Māgadha, Vajjī, Kāsi và Kosala… để giáo hóa quần
sanh…
Trích: Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt (Tập 6), Minh Đức Triều Tâm Ảnh
____________________________________________
Chú thích:
(1) Chú giải
Trưởng lão Ni kệ nói rằng, Sattuka vốn là con trai của quan thừa tướng đương
triều, kinh thành Vương Xá, mang tật trộm cắp từ nhỏ, chịu không nổi, người cha
đành phải đuổi đi.
(2) Dhp-a II 219
nói chỗ ấy có tên Coro-papāta (Vực thẳm trộm cướp).
(3) Thoát ý từ
câu kệ Pāḷi: “ Na hi
sabbesu ṭhānesu puriso
hoti paṇḍito, itthīpi paṇḍitā hoti tattha
tattha vicakkhaṇā” “ Na hi
sabbesu ṭhānesu puriso
hoti paṇḍito, itthīpi
hoti lahuṃ
atthavicintakā!”
(4) Theo
Dictionary of Pāḷi Proper Names
hoặc Dhp-a II, 225.
(5) Theo Dhp-a
II, 223.
(6) Một pháp là
vật thực. Tất cả chúng sanh trong ba cõi sáu đường đều tồn tại nhờ vật thực.
Giải thích thêm: Vật thực cõi dục giới là vật chất, thô hay tế. Vật thực cõi sắc
giới, vô sắc giới là hỷ, lạc, xả, nhất tâm.
(7) Là Nibbāna.
(8) Theo Dhp-a
II,225 thì tôn giả Sāriputta gởi nàng đến xuất gia tại Ni viện.
(9) Kệ Pāḷi: “So me
dhammamadesesi khandhāyatanadhātuyo, asubhānicca dukhāti anatā’ti nāyako”.
(10) Đức Phật
chỉ gọi tên cũ của nàng là Bhaddā; nhưng bhaddā cũng có nghĩa là một cô gái hiền
lành, hạnh kiểm tốt – nên đôi nơi dịch là: “ Này cô gái hiền thục, hãy đến đây!
Cũng được. Tuy nhiên, xin lưu ý cho: “Ehi Bhadde” hoàn toàn khác với “Ehi
Bhikkhunī, Ehi Bhikkhave!” chỉ để dành cho các vị trưởng lão!
(11) Cung trời
Đẩu Suất là theo chú giải, còn trong Trưởng lão Ni kệ thì bảo là cung trời Đao
Lợi.
(12) Pháp cú
100: “Sahassaṃ api ce vācā
anatthapadasaṃhitā; ekaṃ gāthāpadaṃ seyyo yaṃ sutvā
upasammati”.