Chùa Hang quê tôi

chua hang

 

Hạnh Phước

 

Biển đảo Lý Sơn quê tôi cách đất liền độ chừng ba chục cây số, nằm về phía Đông Bắc Quảng Ngãi. Đảo tôi có chiều dài khoảng bảy cây số, và chiều rộng (nơi rộng nhất) khoảng bốn cây số, dân số hơn hai chục nghìn. Người dân quê tôi sống bằng nghề đánh bắt thủy sản và trồng hành tỏi.

 

Ngày xưa, muốn đi vào đất liền, chúng tôi phải đi bằng tàu thủy đóng bằng gỗ; tàu chạy hơi chậm, từ Đảo tôi vào đất liền, mất từ 2 đến 3 giờ đồng hồ (cũng còn tùy thuộc vào mức độ lớn và mạnh của sóng và gió nữa). Ngày nay, chúng tôi đi bằng tàu thủy đóng bằng kim loại (thường gọi là tàu cao tốc); tàu chạy rất nhanh, chỉ mất khoảng 45 phút là vào đến đất liền. 

 

Người dân Lý Sơn, nhìn chung, là hiền, chất phát, hiếu khách và phần lớn, có niềm tin vào tôn giáo và tín ngưỡng dân gian. Xin mở ngoặc chỗ này một tí: ở quê tôi, rất ít có chuyện trộm cướp, nhiều nhà, tối ngủ không cần phải đóng khóa cửa; vào ban đêm, xe gắn máy không cần dắt vào nhà, có thể dựng ngoài sân mà không cần khóa cổ, khóa chân. Trong số những tôn giáo hiện có tại Đảo tôi, Phật giáo là tôn giáo mà nhiều người và nhiều gia đình nhận làm tôn giáo truyền thống nhất. Phật tử quê tôi có niềm tin sâu đậm vào ba ngôi Tam bảo, khát ngưỡng nghe Pháp Phật, luôn mong được gần gũi chư Tôn đức Tăng Ni để học pháp và tu Phật.

 

Đảo tôi có bốn ngôi chùa và một tịnh xá, gồm, các chùa: Vĩnh Ân, Từ Quang, chùa Hang, chùa Đục, và tịnh xá Ngọc Đức. Trong năm ngôi tự viện ấy, chùa Hang có phong cảnh đẹp nhất, có nhiều truyền thuyết huyền bí nhất. Chùa cũng được công nhận là di sản văn hóa cấp quốc gia. Chánh điện chùa này nằm sâu trong hang núi đá, nên người dân quê tôi gọi chùa ấy là chùa Hang. Mặc dù chùa này còn có tên gọi nghe văn vẽ “Thiên Khổng Thạch Tự”, bốn chữ này được khắc trên vách núi đá trước chánh điện; nhưng người dân quê tôi vẫn thường gọi ngôi chùa ấy là chùa Hang. Tên gọi nghe có vẻ dân dã và mộc mạc, nhưng nó thường gắn liền với  những kỷ niệm đẹp thời thơ ấu của bao lớp người sinh ra và lớn lên trên biển đảo Lý Sơn.

 

Theo một bài viết về nguồn gốc đảo Lý Sơn, thì đảo này được hình thành từ một triệu năm trước do núi lửa phun trào nham thạch. Nham thạch ấy nhô dần lên khỏi mặt nước biển và tạo nên hòn đảo này với năm ngọn núi để che chắn gió Bấc đến từ phương Bắc; trong năm ngọn núi ấy, có nhiều hang động lớn nhỏ khác nhau. Chùa Hang được tạo lập từ một hang núi đá lớn nhất trên đảo. Không ai biết chính xác hang núi đá này được tạo ra từ lúc nào và nguyên nhân do đâu. Nhiều người ước đoán, nó được tạo ra do những lần xâm thực của sóng biển và có từ thời tiền sử.  

 

Theo lời bà con quê tôi kể lại và đọc thấy trên các trang mạng, chùa Hang được tạo lập vào khoảng đầu thế kỷ thứ mười bảy, trong thời kỳ của vua Lê Kính Tông. Chùa được kiến lập và trông nôm bởi dòng họ Trần Công, đầu tiên là các ông Trần Công Thành, Trần Công Bạch. Người dân quê tôi truyền rằng, ngày ấy, các ông này có “phép thuật” rất cao. Trong thời gian cư ngụ tại chùa Hang, các ông thường “rấm đậu thành binh” để chống kẻ thù xâm lược hoặc tiêu trừ yêu quái; các ông có thể ngồi hoặc đứng trên chiếc nón lá nhỏ lướt sóng đi vào đất liền. Và truyền rằng, ngày xưa, trong chánh điện của ngôi chùa có đường lên trời và đường xuống âm phủ. Ngày nay, vẫn còn một con đường thông sâu vào trong núi, dài khoảng hơn 20 m; đường nhỏ và tối.

 

Chánh điện chùa Hang nằm sâu trong hang núi đá, chiều dài khoảng hơn 35 m và chiều rộng khoảng chừng 30 m, có hình dáng như hàm con ếch, ngoài cao (khoảng 15 m) trong thấp dần (chạm đất); tại nơi Phật tử và khách tham quan thường lễ Phật cao khoảng chừng 3 m. Hình như, theo thời gian, do độ giản nở của đá, chiều cao của hang đá này thấp dần. Chùa hướng ra phía Bắc, hướng gió Bấc thổi vào. Gió thổi rất mạnh vào sân chùa và những vách núi, thường tạo ra nhiều âm thanh khác lạ: du dương cũng có, huyền bí cũng có, mà “ma quái” cũng có.  Ngày trước, vì chùa tọa lạc cách xa dân cư trong một hang đá dưới chân núi và đường đến chùa hiểm trở, nên Phật tử chỉ thỉnh thoảng hoặc vào những dịp lễ lớn mới về chùa thắp hương, dâng hoa cúng Phật. Ngày nay, đường đi đến chùa thuận tiện hơn, nên Phật tử quanh vùng đã thành lập một Ban hộ tự, và phân công người ở lại chùa trông nôm nhang đèn thường ngày.

 

Nhớ hồi nhỏ, mỗi khi vào dịp Tết và mồng Năm (tháng năm al), nhỏ chúng tôi rũ nhau đi thăm chùa Hang. Hồi ấy, muốn đến được chùa Hang, phải đi bằng một trong hai cách: hoặc leo núi hoặc lội biển. Với nhỏ chúng tôi, cả hai cách ấy đều là những cách “mạo hiểm”. Chùa nằm dưới hang núi, núi dọc theo biển, mà thường vào những dịp lễ là mùa con nước lên, sóng đánh rất mạnh vào những vách núi, chặn ngăn lối đi dọc theo bãi biển. Nên rất khó đi đến chùa bằng đường biển. Chúng tôi thường chọn cách leo núi để đến thăm chùa. Mà đi bằng đường núi thì phải leo núi và nhảy núi, tức là nhảy từ trên vách núi (nơi thấp nhất) xuống sân chùa. Từ vách núi xuống sân chùa chỉ cao chừng 3 hoặc 4 m (không nhớ chính xác, nhưng lúc đó thấy cao). Với người lớn nhảy xuống từ chiều cao 3 hoặc 4 m là chuyện bình thường, nhưng với nhỏ chúng tôi lại là “một vấn đề nghiêm trọng”. “Nghiêm trọng” nhưng mà vui, mà thiêng. Bây giờ thì hết rồi! Đã có đường rộng, đường đổ bê tông. Xe gắn máy có thể chạy lên trên đỉnh núi, dựng xe ở đấy và đi xuống khoảng chừng hai chục bậc tam cấp là đến sân chùa.

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle