Thơ
và thiền là đôi cánh đại bàng tung
bay trên bầu trời Đông phương và Tây phương suốt từ nghìn xưa cho đến ngày nay.
Từ
đỉnh ngàn cao tuyệt mù Hy Mã Lạp Sơn, thiền nghiêng cánh xuống bay lượn khắp các
tòng lâm, thiền viện, am cốc và thơ cũng tung
lướt một cách ngoạn mục từ bến sông Hằng, nơi Đức Phật đã khơi nguồn cảm hứng
Chân Thiện Mỹ.
Thi
sĩ và thiền sư cùng gặp nhau giữa con đường phong quang sáng tạo, thể hiện qua
đạo và thơ, nhưng thi
sĩ là ai, thiền sư là kẻ nào vậy ? Phải chăng đó là những tâm hồn đốn ngộ lẽ đời sinh tử
đọa đày, thống khổ điêu linh, đã vượt qua chính mình để cất lên tiếng hát bất
sinh bất diệt, thiên thu vĩnh cửu như Chứng đạo ca của thiền sư Huyền Giác và
truyện Thúy Kiều của thi sĩ Nguyễn Du?
Truyện Kiều, không ai mà không biết, không ai mà không thuộc lòng một vài câu,
một vài đoạn trong toàn bộ tập trường ca dài hơn ba nghìn câu thơ lục bát tuyệt
hảo vô song của bậc tài hoa đại thi hào dân tộc.
Bồng
bềnh giữa biển đời chập chùng ba đào bão táp, trải qua nhiều biến cố thăng trầm
của lịch sử, Nguyễn Du đã phiêu bạt giang hồ suốt 10 năm long đong ròng rã, từng
ngao du sơn cùng thủy tận khắp 99 ngọn núi cao đầy mây trắng sương mù Hồng Lĩnh
ở quê nhà và đã chứng kiến biết bao nỗi đời tang thương thảm thiết, biết bao vô
thường khổ lụy của bi đát sinh linh quằn quại trong biển khổ trần ai.
Trải
qua quá trình lịch nghiệm, chlêm nghiệm tự thân rồi thấu triệt, thông suốt và
lãnh hội vô tự Chân kinh ngay giữa lòng mình, nên
Nguyễn Du đã sáng tác tựu thành Đoạn trường tân thanh một cách diễm lệ, diệu
thường như thế.
Thi phẩm độc đáo vô tiền khoáng hậu này là tiếng lòng của Nguyễn Du vẫn còn ngân
nga đồng vọng giữa vạn đại miên trường. Một tiếng lòng yêu thương cõi người ta vô
biên vô lượng, thương cho nỗi đoạn trường dâu bể xót xa :
Trăm
năm trong cõi người ta
Chữ
tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải
qua một cuộc bể dâu
Những
điều trông thấy mà đau đớn lòng
Lòng
thi nhân chìm sâu đau đớn rợn ngần trong hố thẳm tâm can, vẫn rung ngân bất
tuyệt tận cõi nào vô vi rực ngời ngọn lửa tâm thức, đốt cháy tập khí lâu đời và
cặn bã của ngôn ngữ loài người để mở rộng khai thông những tinh lực dữ dội đọng
lại trong âm thanh vũ trụ càn khôn lồng lộng. Tiếng lòng ấy đã ứng vào cõi hồn
thục nữ thùy mị Thúy Kiều giữa một chiều du xuân xuất
thần kỳ lạ, gặp nấm mộ Đạm Tiên trong một niềm cảm xúc, rung động sâu xa:
Đã
lòng hiển hiện cho xem
Tạ
lòng nàng lại nối thêm vài lời
Lòng
thơ lai láng bồi hồi
Gốc
cây lại vạch một bài cổ thi
Bồi hồi lai láng tận đáy hồn vốn đã cưu mang, dung chứa sẵn rồi bao nỗi niềm tha
thiết bao dung. Não nùng biết mấy, chạnh lòng xót xa cho
hồng nhan bạc mệnh, cho thân phận kiếp người, cho nỗi đời máu lệ thê lương mà
Thúy Kiều ( hay Nguyễn Du ) dạt dào vô lường thương cảm trong da diết âm thầm :
Lòng
đâu sẵn mối thương tâm
Thoắt
nghe Kiều đã đầm đầm châu sa:
Đau
đớn thay! Phận đàn bà
Lời
rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Phũ
phàng chi bấy hóa công
Ngày
xanh mòn mỏi má hồng phôi pha
Lạ
lùng sao, những giọt lệ rưng rưng nghẹn ngào cứ mãi long lanh, thánh thót rơi
xuống ướt đẫm tâm hồn đa cảm trầm tư. Từ đó nghe ra
xiết bao tiếng lòng Thúy Kiều dịu dàng chơn chất mà vô cùng rung ngân rạt rào vô
tận, trên cung bậc tình yêu thâm thiết ngay buổi đầu sơ ngộ với chàng hào hoa
phong nhã Kim Trọng, trong một niềm chi đồng thanh tương ứng trọn vẹn, tràn đầy,
gây nên một nguồn giao cảm thâm sâu, tâm đầu ý hợp quá đỗi mặn nồng. Rồi run run
chàng trao tay tặng vật mảnh khăn hồng, rồi thề non hẹn biển, ngàn đời
vĩnh viễn thiên thu:
Lặng
nghe lời nói như ru
Chiều
xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng
Rằng :
“Trong buổi mới lạ lùng
Nể
lòng có lẽ cầm lòng cho đang
Đã
lòng quân tử đa mang
Một
lời vàng tạc đá vàng thủy chung”
Được
lời như cởi tấm lòng
Giở
kim thoa với khăn hồng trao tay
Rằng :
“Trăm năm cũng từ đây
Của
tin gọi một chút này làm ghi”
Thúy
Kiều, gái thuyền quyên gặp Kim Trọng, trai anh hùng, quân tử như một nếp duyên
tiền kiếp gặp lại, cho nên ngay lập tức họ liền trở thành đôi bạn chân tình, gắn
bó tri âm tri kỷ khắng khít sâu dày. Tình yêu muôn thuở là vậy, những kẻ yêu
nhau, luôn luôn muốn tiếp xúc cận kề, tìm cách gần gũi
bên nhau để tha hồ hàn huyên tâm sự suốt đêm ngày:
Thời
trân thức thức sẵn bày
Gót
chân thoăn thoắt dạo ngay mé tường
Cách
hoa sẽ dặng tiếng vàng
Dưới
hoa đã thấy có chàng đứng trông:
“Trách lòng hờ hững với lòng
Lửa
hương chốc để lạnh lùng bấy lâu
Những
là đắp nhớ đổi sầu
Tuyết
sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm”
Nàng
rằng : “Gió bắt mưa cầm
Đã
cam tệ với tri âm bấy chầy
Vắng
nhà được buổi hôm nay
Lấy
lòng gọi chút sang đây tạ lòng
Thúy
Kiều lấy tấm lòng trong veo, thuần hạnh, thanh khiết của mình để cảm tạ, đáp tạ
tấm lòng quân tử Kim Trọng rất mực tương kính lễ nghi, trân trọng
theo
thể lệ thời xưa. Thật là cảm động, làm sao không xao xuyến, bồi hồi khi hai
tiếng lòng thiêng liêng, huyền mộng cùng hòa âm thấm thía, chia sẻ từng đường tơ
kẽ tóc dưới ánh trăng ngạt ngào hương hoa bừng rộ vô ngần:
Vầng
trăng vằng vặc giữa trời
Đinh
ninh hai miệng một lời song song
Tóc
tơ căn dặn tấc lòng
Trăm
năm tạc một chữ đồng đến xương
Nói
thì dốc hết ruột rà ra nói thế, nghìn năm khắc cốt ghi tâm cùng một lòng một dạ
thủy chung, không có gì có thể chia cắt được, nhưng rồi.
“Ngày vui ngắn chẳng đầy gang. Chưa vui sum họp đã ngàn chia phôi...” Ơi
chao ! Vô thường chợt đổ trút xuống bất thình lình những tai ương, thảm
họa hoành sinh, nỗi đời tàn bạo, khắc khe chi hỡi trời xanh tàn nhẫn, bất công
đã xô đẩy Thúy Kiều rơi vào cảnh bị đọa đày suốt mười lăm năm trời luân lạc đoạn
trường, rời rã tha phương, làm kiếp hoa trôi bèo dạt, lạc loài, lênh đênh giữa
dòng đời bão loạn, não nề, lê thê lệ đẫm buốt u sầu:
Đau
lòng kẻ ở người đi
Lệ
rơi thấm đá tơ chia rũ
tằm
Trời
hôm mây kéo tối sầm
Dàu
dàu ngọn cỏ đầm đầm cành sương
Lối
mòn cỏ lợt màu sương
Lòng
quê đi một bước đường ruột đau
Đau
lòng đứt ruột, buôn thảm rờn rợn trong đêm dài sinh tử mịt mù u tối, thổi về
từng cơn gió lạnh căm căm:
Ngập
ngừng thẹn lục e hồng
Nghĩ
lòng lại xót xa lòng đòi phen
Vì ai
ngăn đón gió đông
Thiệt
lòng khi ở đau lòng khi đi
Đi về đâu hỡi nhật nguyệt thiên địa mang mang? Chỉ còn vẳng nghe vang vọng rã rời những tiếng lòng tan
nát qua cung đàn chết lặng tê điếng khúc ly tan:
Bốn
dây như khóc như than
Khiến
người trên tiệc cũng tan nát lòng
Cùng
trong một tiếng tơ đồng
Người
ngoài cười nụ người trong khóc thầm
Đó là
tiếng lòng trầm thống, khổ lụy, bi ai của nhân gian ngàn thu
sầu thảm u hoài. Phải chăng, đó cũng là tâm lượng thương yêu
dồi dào vô hạn mà thi hào Tố Như muốn nhắc nhở chúng ta, hãy chiêm nghiệm, quán
chiếu, trầm tư về khổ đế, để rồi trao tặng, gởi gắm tấm chân tình linh diệu cho
hậu thế phải không?
Lỡ
làng gạn đục khơi trong
Trăm
năm để một tấm lòng từ đây
Tấm
lòng thi nhân gởi lại cho trần gian cát bụi dường như muốn nhắn nhủ điều chi hay
trao một thông điệp tối thượng mà đơn sơ giản dị khôn dè:
Tẻ
vui bởi tại lòng này
Hay
là khổ tận đến ngày cam lai ?
Ồ !
Thì ra chung quy hết thảy mọi sự trên cõi đời này xảy
ra cũng đều do tự nơi lòng mình, từ tâm mình đấy thôi. Vâng “Tất cả do tâm tạo” như kinh Hoa Nghiêm đã nói. Tất cả
muôn loài vạn vật, đất trời, vũ trụ càn khôn... đến những buồn vui, sướng khổ,
được mất, hơn thua, đúng sai, phải trái... của con người cũng đều khởi sinh từ
lòng sâu kín ruột rà của chính mình như
lời sư cô Tam Hợp mở phơi :
Sư
rằng : “Phúc
họa đạo trời
Cỗi
nguồn cũng ở lòng người mà ra
Có
trời mà cũng tại ta
Tu là
cội phúc tình là dây oan
Thúy
Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô
duyên là phận hồng nhan đã đành
Lại
mang lấy một chữ tình
Khư
khư mình buộc lấy mình vào trong
Vậy
nên những chốn thong dong
Ở
không yên ổn ngồi không vững vàng”
“Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.”
Đúng rồi, tất cả đạo lý, triết lý, khoa học, văn minh nhân loại từ ngàn xưa đến
nay cũng đều phát xuất tự lòng người, từ tâm tư, trí tuệ tỏa sáng chan hòa và
nhà thơ nhấn mạnh, mạch nguồn cuộc sống của chúng ta là tấm lòng thiên lương,
thiện đức, là cõi Tâm Như thanh tịnh trinh tuyền vốn hằng hữu phong quang, rạng
rỡ tuyệt trần:
Đã
mang lấy nghiệp vào thân
Thì
đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện
căn ở tại lòng ta
Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài
Chữ tâm là chỉ cho tâm người, lòng người. Lòng người, tâm người quả thật là bất khả tư nghì. Muốn nói
về cái tâm, muốn hiểu cho đầy đủ ý nghĩa thì không khác gì mình phải đọc lại
toàn bộ thiên kinh vạn quyển Nguyên thủy và Đại thừa liễu nghĩa do Phật thuyết.
Ở đây chúng ta chỉ có thể lai rai hiểu sơ lược đại khái : Cái tâm là những ý nghĩ, suy tư, tư tưởng, niệm tưởng,
thường xuyên dấy khởi liên tục mãi hoài. Cái tâm có tác dụng ý niệm hóa, cái tâm
chứa đựng kiến thức, cái so sánh biện biệt, lý trí phán xét, cái trực giác nhận
thức, sự tự lãnh hội, cái tri nhận về bản thân, cái ý tưởng, vọng tưởng, suy
tưởng, tưởng tượng, những cảm xúc, cảm giác, tư duy, tinh thần, tâm hồn, tâm
linh, tâm trạng, những thần thức, linh thức, thông minh, thông tuệ… Tất cả những
gì mình có thể trầm tư, uyên tư, uyên mặc, lặn sâu thấu suốt, thấu đạt, hiểu
biết, ý thức, vô thức, tiềm thức.. Tất cả những điều
vừa kể trên đều thuộc về tâm, hiểu theo nghĩa tục đế
thông thường.
Còn
hiểu theo nghĩa chân đế thì tâm là Diệu Tâm, Chân Tâm, là Phật Tánh, Tánh Không,
là Tánh Giác, Bát Nhã, là Chân Như, Tự Tánh vô sanh bất diệt. Cho nên, Thiền
tông với chủ trương : “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy
thức” phủ nhận mọi sức mạnh tự nhiên và
siêu nhiên ở bên ngoài. Thiền quy định mọi khía cạnh, mọi giá
trị cuộc đời về cho sức mạnh của tự tâm.
“Tâm
là căn pháp là trần
Thảy
đều ngấn bụi ám gương trong
Bao
giờ bụi hết gương trong lại
Tâm
pháp cùng quên tánh rõ chân…”
Thiền
sư Huyền Giác phát biểu như thế trong Chứng đạo ca, cũng như Tuệ Trung Thượng Sĩ
tuyên bố về tâm tự tại vô quái ngại :
“Muốn
cầu tâm
Chớ
tìm ngoài
Bản
thể như nhiên vốn vắng lặng
Niết
bàn sinh tử chẳng buộc ràng
Phiền
não bồ đề không đối nghịch
Tâm
tức Phật
Phật
tức tâm
Diệu
chỉ sáng ngời khắp cổ kim
Xuân
đến hoa xuân tự nhiên nở
Thu
về đâu khỏi nước thu xanh …”
Như
vậy, tâm có thể tạo ra Phật và chúng sinh, tâm tạo ra Niết bàn và sinh tử, thiên
đường và địa ngục, hạnh phúc và khổ đau... Tâm tạo ra muôn loài vạn vật, tâm sinh ra tất cả vì tâm là chủ động
của đời sống mỗi một người trong chúng ta vậy.
Điều đó đã được thể hiện vô cùng ngoạn mục qua Ma Ha Ca Diếp niêm hoa vi tiếu
trên tuyệt đỉnh Linh Sơn, Duy Ma Cật thõng tay vào chợ, Long Thọ tự do tự tại
phá chấp, Bồ Đề Đạt Ma im lặng sấm sét, Huệ Năng khai thị bản lai vô nhất vật,
Lâm Tế, Đức Sơn, Không Lộ, Quảng Nghiêm gầm hét nổ bùng xung thiên chí, Tuệ
Trung Thượng Sĩ nghêu ngao khúc Phóng cuồng ca, Tế Điên, Hàn San, Thập Đắc, Bùi
Giáng nhảy múa điệu du hý tam muội
xênh xang, hoan hỷ địa vui vầy…
“Người hiểu tâm này, người tự độ. Linh Sơn chính là lòng ta đó.” Nguyễn Du đã
thấy rõ tận tường như thế. Thấy tâm, trực tâm, liễu tâm để lắng nghe lại
tiếng lòng tha thiết miên man vang dội giữa thiên địa tuần hoàn, khiến chúng ta
có nghe ra được tiếng gì vi diệu hay trông thấy được điều chi kỳ tuyệt hiện hữu
nhiệm mầu, ngay trong tâm hồn, trong tận đáy lòng sâu thẳm của chính mình hay
không ? Có bùng vỡ, trực ngộ ngay lập tức “đương xứ tức
chân” ngay ở đây và bây giờ, chớ không chờ đợi vô lượng kiếp sau xa xăm nào nữa?
Một
nhà chung chạ sớm trưa
Gió
trăng mát mặt muối dưa chay lòng
Bốn
bề bát ngát mênh mông
Triều
dâng hôm sớm mây lồng trước sau
Nạn
xưa trút sạch làu làu
Duyên
xưa chưa dễ biết đâu chốn này
Trong
Văn tế thập loại chúng sinh, nhà thơ cũng nhắc đi nhắc lại nhiều lần chữ lòng
thuần nhiên, thuần phác mà suốt thấu sâu sắc đậm đà :
Lòng
nào lòng chẳng thiết tha
Chỉ
một câu thơ đơn giản thôi, Nguyễn Du cũng đủ thần lực gây chấn động, nhói buốt
khắp ruột rà xương xảu máu me của chúng ta. Quá cùng xúc cảm, bàng hoàng trước
cảnh phù sinh bèo bọt, có ai không muốn thoát khỏi bọt bèo phù du ? Chỉ cần tỉnh thức, trực thấy ngay nơi lòng trong xanh
thanh tịnh của chính mình vốn là Phật đấy thôi:
Kiếp
phù sinh như hình bào ảnh
Có
câu rằng: Vạn cảnh giai không
Ai ơi ! Lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát ở trong luân hồi
Ơi
chao ! Thanh âm trầm hùng, bùng vỡ từ lòng thi nhân vẫn
còn rúng chuyển, rung động cực kỳ như tuệ kiếm Kim Cang vung lên, chặt đứt hết
mọi xích xiềng, phiền não, mê ám thảm thương :
Mãn
cảnh giai không hà hữu tướng ?
Thử
tâm thường định bất ly thiền
( Khắp cõi là không tánh thì đâu có tướng ?
Tâm
này thường định chẳng lìa thiền )
Nguyễn Du đã viết hai vần thơ xuất thần nhập diệu trên trong bài Đề Nhị Thanh
động ở Lạng Sơn, chứng tỏ cái thấy của thi sĩ không khác gì của một thiền sư đã
đốn ngộ đạo Thiền.
Tiếng
lòng, cõi tâm hay lòng Bồ đề, tâm Đại bi vô lượng thương yêu hết tất
cả thập loại chúng sinh như trong bài Văn
tế sống hai cô gái Trường Lưu đã được thi nhân viết từ khi còn rất trẻ, lúc tuổi
thanh xuân :
Tiếp
đãi mấy đêm một mực
Lòng
Bồ đề hỷ xả từ bi
Xôn
xao một khắc ngàn vàng
Đàn chẩn tế Ba la Bát nhã
Bát nhã Ba la là Trí tuệ siêu việt, là tâm quang minh đại
từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, là bản thể Chân Như. Như thế, bằng Trí tuệ siêu
việt, bằng tâm Đại bi, lòng Bồ đề sâu rộng bao la mà nhà
thơ đã thể hiện thiết tha nhất quán đối với bao nhiêu thống khổ trầm kha của
kiếp người qua các tác phẩm thi ca bất hủ của bậc thiên tài vĩ đại Tố Như.
Chính “Lòng thơ lai láng bồi hồi” ấy đã chảy rạt rào trong tư tưởng thượng thừa
và cảm thức thấu thị tử sinh của thi nhân. Từ đó tuôn chảy trong veo dào dạt vào tận đáy lòng trong trẻo tinh
khôi của chúng ta, của toàn thể dân tộc Việt, một dân tộc thi sĩ nhất trên mặt
đất thân yêu này.
Tâm Nhiên