Bình luận về một bài viết rất chi là
“sư phạm chơn ngôn” của thầy Lê Duy Đoàn, một đóng góp văn chương kỷ niệm 45 năm
Đại Học Sư Phạm Huế, dưới nhan đề “Sư Phạm - một con đường”, thầy Đoàn
Ứng Viên bèn ra thơ… nóng hổi:
rằng hay
thì thật là hay
không hay
sao lại đỗ ngay sư...phàm
bây chừ con
cháu càm ràm
phải chi không học chắc làm quan to
(Đoàn Ứng Viên. Email: Vào 13:52 Ngày 01 tháng 4 năm
2013)
Sư Phạm Đại Học Huế - Một cảnh trại
Hè, khóa Phan Châu Trinh 1970
Mới nghe cái hơi hướm dí dỏm đầy vẻ
Tú Xương và Bút Tre thì cũng hơi hứng chí tức cười, nhưng khi ngoái đầu nhìn lại
cái “sự nghiệp sư phạm” qua những mảnh đời làm thầy giáo của mình, tôi bỗng cảm
thấy mắt mình hơi… cay cay!
Nhân gian có thể khác nhau về nhiều
mặt, nhiều dáng, nhiều vẻ nhưng lại rất giống nhau tự cổ chí kim, từ Đông sang Tây về hình ảnh và cuộc sống của nghề dạy
học. Đó là bất cứ ở đâu và vào thời kỳ nào thì người làm nghề thầy giáo
đều nghèo. Người ta có thể dùng chữ hoa mỹ như thanh bạch, đạm bạc, khiêm
tốn, tri túc… đầy hào sảng để nâng dấu chân người thầy lên một chút nhưng
chẳng ai nâng được bục giảng thành bệ, thành đài; và cũng chẳng ai hoán chuyển
được cái thanh bần thành trọc phú. Thôi thì thôi nhé! “Đã mang lấy nghiệp vào
thân…” thì cứ rứa mà an
phận lên đường. Dẫu cho Con Đường Bụi Phấn êm đềm hay gian nan là thế.
Ngày xưa, thuở trời đất chưa “nổi cơn
gió bụi” thì chọn nghề dạy học là chọn một lối sống an nhiên, bình thản, ngày
lại ngày sống đạm bạc yên thân. Quá lắm thì cũng “tiến vi quan,
thối vi sư” là cùng. Đường vào sư phạm thì có vô số môn
phái, môn đồ.
Mỗi thầy, mỗi cô đều có sự bắt đầu và kết thúc dòng đời sư phạm của mình theo
một hoàn cảnh và kiểu cách riêng, nhưng vẫn có một lối đi chung chung theo quy
ước xã hội, tuy đã vàng phai nhưng vẫn còn thấp thoáng dư vang một thời Quân Sư
Phụ. Trong cuộc Chiến tranh Việt Nam và hoàn cảnh đất nước đổi thay từ sau năm
1975, nghề dạy học đã bị lay động tận gốc rể. Thầy cô giáo
cũng phải cựa quậy, đôi khi đến mức quyền biến, để sống còn trong mỗi hoàn cảnh
đổi thay.
Riêng bản thân tôi, đường vào sư phạm
mở ngõ như một ngã rẽ tình cờ.
Tôi đậu tú tài ban toán, theo học dự bị Văn khoa trước
khi thi đỗ vào Y khoa. Nhưng con đường làm thầy lang
Tây khép lại khi ông anh đẩu tử trận, nguồn tài trợ không còn.
Tôi thi vào sự phạm ban Việt Hán và đỗ đầu trong số 11 sinh viên được tuyển
chọn; ra trường đứng thứ nhì sau Trần Hoài là thủ khoa toàn khóa Phan Châu Trinh
1970.
Có lẽ so với các bạn cùng lớp Đại học
Sư phạm Huế, tôi là gã gian nan nhất đã bước đi trên con đường bụi phấn gập
ghềnh suốt 43 năm – có chăng không duyên thì cũng nghiệp – kể từ khi bắt đầu dạy
trường Phan Sào Nam năm 1967 nơi Quê Mẹ và kết thúc nghề dạy học ở trường
Lutheran Pacific University năm 2010 ở Xứ Người.
Trên đường bụi phấn ban mai
Năm đầu tiên vào Đại học Sư phạm Huế,
tôi đã bắt đầu đi dạy giờ ở các trường tư. Trường đầu tiên nơi tôi bắt đầu làm
nghề thầy giáo là trường Phan Sào Nam ởTây Lộc, Huế khi thầy Lâm Toại làm hiệu
trưởng. Thầy Toại và thầy Vinh đã đích thân ghé nhà mời
tôi dạy môn Anh văn. Năm sau, tôi cũng dạy Anh văn ở
trường Bán Công Huế do thầy Nguyễn Đăng Ngọc, chánh thanh tra học chánh giới
thiệu với thầy Âu Đức Tài đang làm hiệu trưởng. Nhưng
chính thức bước vào nghề dạy học là khi tôi tốt nghiệp ĐHSP và chọn ra dạy học ở
trường Nguyễn Hoàng Quảng Trị.
Gia đình sống ở Huế, ra Quảng Trị dạy
là sự lựa chọn phổ biến nhất của các giáo sinh gốc Huế vừa tốt nghiệp có ưu tiên
cao nhất nhì theo vị thứ tốt nghiệp. Hàng tuần, tôi dồn hết giờ dạy trong vòng 4 ngày rồi vào Huế với gia
đình 3 ngày. Có lẽ con đường bụi phấn “dễ sợ” nhất của tôi kể từ thời đó
và cho đén bây giờ là mỗi sớm thứ Hai phải xuất phát từ Huế khi trời mờ sáng để
ra tới Quảng Trị cho kịp giờ sáng thứ Hai chào cờ toàn trường. Trên quốc lộ 1,
con đường duy nhất từ Huế ra Quảng Trị dài 60 km thì đoạn đường đáng kinh hoàng
là từ Văn Xá ra tới Mỹ Chánh. Trên đường, thường xuyên có những bẫy chết bất ngờ
do du kích hay bộ đội đào đường chôn mìn lúc ban đêm, xe
đò vượt qua trúng mìn nổ là tan xác pháo.
Tôi đã có khá nhiều bài viết về sinh
hoạt xã hội và giáo dục trong suốt 5 năm dạy học tại trường Nguyễn Hoàng.
Tôi đến với Quảng Trị trong một giai đoạn có nhiều biến động
nhất của xứ nầy. Chỉ trong vòng 5 năm mà trường Nguyễn Hoàng dời tới 4
địa điểm khác nhau: Nguyễn Hoàng còn gốc ở Quảng Trị (1971).
Nguyễn Hoàng Non Nước và Nguyễn Hoàng Hòa Khánh (1972-1973) khi di tản vào Đà
Nẵng. Nguyễn Hoàng Hải Lăng (1974 khi hồi cư). Và,
Nguyễn Hoàng mất tên (1975) nhưng lạ một điều là tình đồng môn và quan hệ Thầy
Trò Nguyễn Hoàng thì thắm đượm hơn cả khi trường còn hiện hữu.
Trên đường bụi phấn ban trưa
Tôi tốt nghiệp Đại học Sư Phạm Huế và
được bổ ra dạy tại trường trung học Nguyễn Hoàng Quảng Trị năm 1970. “Mùa Hè đỏ lửa” năm 1972, tôi cùng với đoàn người chạy loạn
vượt qua Cầu Dài trên “đại lộ Kinh Hoàng” vào Đà Nẵng. Nơi trại tạm cư, tôi dạy
học tại một trong hai nhánh trường Nguyễn Hoàng: Nhánh phía Bắc mượn tạm nhà kho
của quân đội Mỹ tại Hòa Khánh. Nhánh phía Nam tạm cư ở vùng Non Nước. Năm 1973,
hồi cư về vùng đồi cát Hải Lăng, Quảng Trị. Năm 1975, chạy loạn vào Đà Nẵng lần
thứ hai và bị kẹt cùng với hàng vạn đồng bào Huế, Quảng Trị trên đường di tản
vào phía Nam.
Khi cả Huế và Đà Nẵng hoàn toàn rơi
vào sự kiểm soát của quân đội miền Bắc vào cuối tháng 3 năm 1975, mọi hy vọng di
tản về Nam hoàn toàn tiêu tan. Giữa lúc đó, gia đình chúng tôi lại
phải đối diện với một hoàn cảnh khó khăn riêng: Vợ tôi sắp sinh. Bệnh viện hộ
sinh đã khám định kỳ và được chọn làm nơi sinh cho cháu bé tương lai là “Nhà
thương Cô Lành” gần cửa Đông Ba, Huế. Chúng tôi không còn sự
lựa chọn nào khác hơn là phải tức tốc ra Huế. Ngày trở lại Huế, thành phố vẫn còn vắng vẻ. Bộ đội canh gát
trên đường và các cửa thành xen lẫn với người dân từ vùng quê lên hay từ Đà Nẵng
ra gánh gồng trở về nhà cũ. Đang đi trên đường Lê Lợi gần Morin, tôi gặp Trần
Kiên Nhẫn, bạn thân học cùng lớp từ thời ở trường Quốc Học. Nhẫn vui mừng la
toáng lên:
“Gặp mi,
tau mừng quá. Mi là Cơ sở Cách mạng!”
Thật tình
trong ngữ cảnh lúc đó, tôi chỉ hiểu được nhóm chữ “Cách mạng”, nhưng mù tịt
không biết “Cơ sở” là gì trong một trào lưu chính trị tạm gọi là…
Cách mạng. Tôi hỏi Nhẫn:
“Tao là cơ sở Cách mạng à?! Nhưng cơ sở cách mạng là chi?”
Nhẫn giải thích:
“Cơ sở Cách Mạng là người có công với
Cách mạng.”
Tôi hỏi lại:
“Thiệt tình tao chưa hiểu chi cả.
Mi nói tao nghe, tau đã làm chi mà có công với cách mạng?”
Nhẫn có vẻ hơi bối rối, giải thích mơ
hồ rằng:
“Thì mi biết tụi tao là người có tham
gia vào hội Liên hiệp Thanh niên, Sinh viên, Học sinh Giải phóng mà không tố cáo
với nhà cầm quyền Ngụy…”
Tôi thật tình chia sẻ:
“Tụi mình là bạn học chơi thân với
nhau nhưng mi biết tính tao là thằng cóc cần để ý đứa nào làm chi. Đó là chuyện
riêng của mỗi đứa, mắc chi lại kéo tao vào.”
Nhẫn nói, giọng có vẻ quyền lực:
“Thôi thì cứ rứa cái đã. Chuyện đã
qua cho qua. Nhưng trong tình hình hiện chừ, mi muốn làm cái chi?”
Nghĩ đến
mấy đứa con dại và vợ sắp sinh, tôi hăng hái nói lên sự mong muốn của mình:
“Tau muốn đi dạy học ở Huế.
Ra Quảng Trị xa quá. Tao có sự vụ lệnh thuyên chuyển về Huế rồi, nhưng
chưa kịp trình thì chạy loạn.”
Nhẫn nói dễ dàng:
“Tưởng làm chi chớ như mi mà vẫn còn
muốn tiếp tục xin đi dạy học lúc nầy thì dễ ợt. Tụi đi dạy có công với Cách mạng bỏ
dạy đi làm ở các ủy ban hết. Mi chưa tới 30 tuổi, thanh niên
“trắng” (nghĩa là không đi lính), lại là dân giáo sư đệ nhị cấp thì ưa trường
nào tao xin cho. Nhưng phải là đoàn viên đoàn Thanh
niên mới được.”
Tuy chưa hề biết đoàn Thanh niên là
đoàn thể gì, nhưng bất cứ phương tiện nào giúp cho tôi một chỗ dạy học ở Huế để
giúp vợ nuôi con trong hoàn cảnh mới đều là cái phao để vớ. Tôi đồng ý theo sự dẫn dắt của Nhẫn. Nhẫn đưa tôi lên văn phòng Thành
Đoàn Huế. Đó là một nhà lầu cũ nằm gần bờ sông An Cựu.
Nhẫn dắt tôi vào gặp ông Lê Phương Thảo là trưởng Thành Đoàn lúc bấy giờ.
Sau một thủ tục gia nhập ngắn, ông Thảo đưa tôi một tờ giấy quyết định và nói:
- Bây giờ anh là đoàn viên đoàn thanh
niên Lao Động. Tôi quyết định đưa anh về phụ trách Đoàn Thanh niên trường Nguyễn
Tri Phương.
Từ khi đi lang thang tình cờ gặp bạn Nhẫn đến khi cầm quyết định về
trường Nguyễn Tri Phương Huế chưa đầy hai tiếng đồng hồ. Tôi
cảm thấy hơi lo lắng vì không biết phải làm gì với chức vụ “hoạnh tài” mới toanh
mà trước đó vài giờ tôi chưa bao giờ nghĩ tới.
Cầm tờ quyết định về trường mới, tôi
chạy xe Honda một mạch tới trường Nguyễn Tri Phương. Nơi đây, đã
có một nhóm điều hành trường gọi là ban Giám Hiệu: Trưởng ban là anh Dương Văn
Lộc, người Vỹ Dạ. Anh Lộc là một thầy giáo đệ nhất cấp của trường NTP. Sau đó, tôi được biết thêm anh ta là một trung úy “Ngụy” biệt phái
trước 1975 nhưng lại là “Cơ sở Cách mạng”. Phó ban là anh Nguyễn Văn Tám,
cũng là một thiếu úy “Ngụy” biệt phái và đồng thời là một giáo sư đệ nhất cấp cũ
của của trường nầy. Tôi được anh Lộc giao làm phó ban Giám hiệu lo về giáo vụ và
phụ trách đoàn Thanh niên của nhà trường. Vốn là một cựu liên
đoàn trưởng Gia đình Phật tử nên tôi đã quen với công tác hoạt động thanh niên.
Đoàn Thanh niên trường Nguyễn Tri Phương có chừng 50 em học sinh gồm cả ba cấp
lớp: 10,11 và 12. Hầu hết còn ở mức
độ “thanh niên yêu nước” chứ chưa được vào đoàn Thanh niên. Sinh hoạt
chính của Đoàn Thanh niên trong thời gian nầy là giúp nhà trường là xếp đặt lại
trật tự bàn ghế và thiết bị trong các phòng, các lớp đang trở nên quá lộn xộn,
hư hại và nhếch nhác sau một thời gian dài ngưng hoạt động.
Sự vướng mắc tâm lý thường xuyên ám
ảnh tôi kể từ ngày về trường Nguyễn Tri Phương là tình trạng man khai “có công
với Cách mạng”. Thật bụng, tôi chỉ mong được tiếp tục đi
dạy học như một thầy giáo bình thường ở Huế mà thôi.
Bỗng đâu cái mũ “cơ sở Cách mạng” do thằng bạn thân lúc cao hứng chụp đại lên
đầu tôi trong một hoàn cảnh tranh tối tranh sáng và giữa một thời điểm mà việc
luận công, hành tội không rõ ràng và tùy tiện. Tôi đành ngậm bồ hòn làm thầy
giáo… Cách mạng, không còn lối rút lui.
Bức tường “nhà giáo…
Cách mạng” trở thành cái hố ngăn cách cá nhân tôi và đồng nghiệp.
Tôi đã tình cờ bị xô lên ngựa thì phải ôm chặt bờm cho khỏi ngã. Bỗng
dưng sáng mai ngủ dậy, trước mắt những Thầy Cô giáo hàng tiền bối cây đa cổ thụ
xứ Huế của tôi đang trố mắt nhìn gã thầy giáo ăn sau chạy dọi như tôi đã “theo
Cách Mạng (?!)” từ thuở nào mà nay được tiến cử vào hàng ban Giám Hiệu.
Trạng thái tâm lý “khủng hoảng lai lịch” (identity crisis) đã làm tôi cảm thấy
mất hết hứng thú và lòng tự hào của một giáo sư chưa đầy 30 tuổi, còn đầy lý
tưởng. Dẫu tôi có nói rằng, tôi không hề có công hay có
tội hoặc duyên nợ gì với thế lực cầm quyền mới cả thì cũng chẳng ai tin.
Đối với thầy cô giáo miền Nam thì tôi là người của chế độ mới.
Đối với thầy cô giáo miền Bắc thì tôi là người của chế độ cũ.
Đối với thế lực lãnh đạo của trường là chi bộ Đảng thì tôi là kẻ đứng ngoài.
Với một thầy giáo trẻ có liêm sĩ tri thức và luân lý chức nghiệp mà phải đứng ở
vị thế “lững lơ con cá vàng” như thế quả là một tai họa cho lòng tự trọng và tự
ái nghề nghiệp. Khi không thể tự xác định mình là ai giữa một
tập thể “quan trên ngó xuống, người ta trông vào” như vậy, tôi cảm nhận được
mình đang đi vào một trạng thái khủng hoảng tâm lý.
Như ngày xưa Tú Xương nhìn lên bảng
trượt thấy tên mình thì bỗng phát sinh ra thứ tâm lý buông xuôi, bất chấp:
“nhìn lên trên bảng thấy tên ông, ông tớp rượu vào ông nói ngông…” tôi cũng
đã trải qua những tháng ngày “lưu lạc trong chính mình” như thế. Tuy tôi không
“tớp rượu vào để nói ngông” như tiền bối Tú Xương, nhưng khi nhận ra rằng, trong
xã hội mới “Sư Phạm – (không phải) là một con đường” như bạn Lê Duy Đoàn đồng
môn, đồng khóa đã viết, tôi quá thất vọng. Thất vọng từ vụ đổi tiền ngày 22-9
-1975 – như nhà báo Huy Đức ghi lại đôi dòng cảm xúc của tôi trong tác phẩm “Bên
Thắng Cuộc” vừa xuất bản năm 2013 – đến những sinh hoạt “gây dị ứng” của hệ
thống giáo dục miền Bắc được áp dụng máy móc trong khung cảnh miền Nam đã khiến
tôi tự xét mình không “kham nổi” vai trò thầy giáo và sinh hoạt tuổi trẻ trong
nhà trường kiểu mới. Cuối năm học 1975-1976 tôi đã gởi đơn cho bí thư đoàn trường NTP Lê Huy Linh xin nghỉ sinh hoạt khỏi đoàn
thanh niên. Và ngày 30-8-1978, tôi và thầy Hồ Hữu Hạnh đã nhận
giấy đuổi dạy ra khỏi trường Đồng Khánh “về địa phương lao động sản xuất.”
Đấy là cái giá phải trả cho một thầy giáo chân lạc bước trên con đường bụi phấn
như tôi mà tai vẫn còn nghe văng vẳng lời những vị thầy xưa như đức Khổng Tử và
các hiền nhân một thời và mãi mãi: “Hòa nhi bất đồng; tòng nhi bất đảng”.
Đã 35 năm qua nhưng tôi còn nhớ cảm
giác “ớn lạnh” của một người thầy giáo bị đuổi dạy trong cảnh dầu sôi lửa bỏng. Giữa một khung cảnh xã hội đương
thời đầy hận thù, chuyên quyền và đày ải mà bị hất chân ra khỏi môi trường sống
bình thường là đang tựa lưng trên cửa về Địa ngục…
Nếu có chăng một lời nhắn lại cho thế
hệ sư phạm đàn em thì đó sẽ là một lời tâm sự đơn giản nhưng thiết tha rằng, với
bất cứ ai đã chọn con đường dạy học thì nghề sư phạm là nguồn và nghề theo đuôi
chính trị là suối. Suối có thể len bước, lách mình để có một
dòng chảy; nhưng nguồn thì không. Thà để cho nguồn khô,
suối cạn; nhưng đừng bao giờ đem suối bẩn lên làm vẩn đục đầu nguồn.
Trên đường bụi phấn ban chiều
Khi hình dung một người thầy giáo (chứ
hãy khoan nói đến cô giáo) có lẽ không có ai lại liên tưởng đến một người thầy ở
trần, mặc quần xà lỏn mà lên lớp dạy cả. Thế nhưng hình dáng
không tin ấy lại có thật đối với tôi. Tôi đã ở trần lên
lớp trước ống kính của truyền thông quốc tế.
Tháng 7 năm 1982, chúng tôi vượt biển
từ bãi biển Hải Nhuận cách thành phố Huế chừng vài ba chục cây số. Sau 12 ngày đêm lăn lộn trong cảnh
mười phần chết, một phần sống với sóng gió của đại dương với 23 người ép nhau
nằm trong lòng chiếc ghe nan đan bằng tre; ngày nắng cháy da cháy thịt, đêm lạnh
như băng và những xóm làng cùng con người có chỗ nhân ái, có nơi thù nghịch muốn
ăn tươi nuốt sống… Cuối cùng, chúng tôi cũng đến được đảo Chimawan, ngoài khơi
Hồng Kông trên mình chỉ còn độc nhất chiếc quần đùi và làn da cháy nắng, dầm
sương, đầm nước biển đen sì và dày cộm như cơm cháy. Đây
nguyên là một trại tù cấm cố (Closed Prison). Nay dành để tạm nhốt những người vượt biển tỵ nạn đến đất Hồng Kông
sau tháng 7-1982. Hơn hai nghìn trại viên vượt biển nhốt trong trại phải
sống theo đúng kỷ luật gắt gao của người tù cấm cố: Mỗi
ngày điểm danh 3 lần. Ăn, uống, tắm gội, ngủ, nghĩ, học, chơi… đều phải theo đúng thời biểu và kế hoạch quy định.
Không gian sinh hoạt không được vượt quá lằn ranh quy định.
Trong khung cảnh đó, tôi trở thành một thầy giáo dạy Anh văn
bất đắc dĩ.
Ngày đầu tiên nhập trại, sự mong ước tha thiết nhất của tôi cũng như mọi người
đồng cảnh ngộ là làm sao gởi được một điện tín về cho cha mẹ, thân nhân: “Đã tới
được… đâu đó còn sống!”
Khi đang mang niềm mong mõi cùng cực
đó thì bỗng đâu có một ông Mỹ mập từ đất liền Hồng Kông tới thăm trại.
Sau nầy mới biết ông ta là Sheldon Crutchfield, một nhà từ thiện của hội Tin
Lành, có chân trong Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR). Tôi e dè tới gặp ông
“Mỹ Mập” trong tầm mắt trông chừng của cảnh sát trại giam thường rất khắt khe
trong mọi sự tiếp xúc với khách viếng trại. Sheldon tỏ ra rất
quan tâm và thích thú khi nghe tôi nói tiếng Anh tương đối khá trôi chảy.
Tôi nhanh chóng vớ được một “hợp đồng song phương” quá hấp dẫn hơn cả mơ ước, đó
là ngay hôm sau, ông Mỹ Mập sẽ giúp tôi gởi một điện tín về quê hương cho mẹ tôi
với nội dung: “Con đã đến được Hồng Kông an toàn”. Đổi lại, tôi phải dạy lớp
tiếng Anh đầu tiên mà ông ta mở ở Trại Cấm cho bà con trại viên. Phòng
ăn tập thể của trại biến thành lớp học ngay sau bữa ăn sáng hôm sau. Khi chuẩn bị lên lớp lúc 9 giờ, tôi bỗng “khám phá” ra mình ở trần.
Mấy ngày qua, với khí hậu nóng bức và sân trại đầy người với đa số đàn ông đều
không có áo như tôi. Sau những ngày kinh hoàng vừa
thoát chết trên biển cả, chẳng ai quan tâm đến chuyện quần áo, trang sức bên
ngoài. Ngó quanh, ngó quất người đồng cảnh ngộ thành
quen thuộc.
Nhưng khi chuẩn bị lên lớp làm thầy giáo mới cảm thấy ngỡ ngàng với chính mình
khi ngó xuống tập sách trên tay và chiềc quần xà lỏn
“phất phơ theo gió” của mình. Nhưng trong cảnh hết đường chọn
lựa, tôi làm sao đào cho ra một chiếc áo hay mượn của ai đây.
Khi tôi bước lên chiếc bàn thầy giáo,
mình trần; tôi nghe có tiếng xì xào biểu tỏ sự cảm thương hơn là khen chê, phê
phán.
Nhìn xuống lớp học đông như phòng ăn với đủ thành phần và lứa tuổi, đa số đàn ông đều không có
áo như mình, nhưng mọi ánh mắt đều sáng lên vẻ nao nức muốn học thứ ngôn ngữ
giúp sống còn trên bước đường tương lai chưa định hướng của mình, tôi xúc động
đến nghẹn lời. Bỗng dưng tôi muốn khóc khi nghĩ đến ngày mình bị đuổi dạy trên
sân trường Đồng Khánh. Sau bốn năm dọc đường gió bụi, từ lao động Bình Điền, lái xe Lam Huế Bao Vinh, tới bán Chợ Trời
Tây Lộc Huế, hôm nay bàn tay sần sùi vì gian khổ của tôi được cầm lại viên phấn.
Mân mê viên phấn trắng trên tay, suy nghĩ một thoáng,
tôi viết lên bảng xanh chữ dạy đầu tiên trên xứ người: “Thank you!” – Cám ơn –
Xin cám ơn đời và cám ơn quê mẹ một thuở, quê người phút nầy đã cho tôi niềm vui
thiêng liêng của người thầy giáo trên bục giảng. Đó là trạng thái tinh thần đầy
cảm xúc như người người diễn viên trên sân khấu, như gã nghệ sĩ trên đường sáng
tạo. Tôi lại được đi trên Con Đường Bụi Phấn là thực hay mơ.
Hãy khóc đi hỡi quê hương yêu dấu…
Ba mươi năm định cư trên đất Mỹ, tuy
cuộc sống không kém phần cam go, nhưng tôi vẫn ráng hết
sức mình để cho niềm vui, nỗi khao khát và lòng tự hào của một người còn mong
được bước đi trên Con Đường Bụi Phấn không lụi tàn. Nhìn lại con đường dài hun
hút độc hành hay đồng hành với những mảnh đời sư phạm, bụi thời gian phủ mờ quá
khứ, nhưng bụi phấn vẫn sáng lên niềm tâm cảm long lanh của người thầy và lớp
học. Trong tôi, tiếng giảng bài bị cắt đứt thường xuyên bởi tiếng máy bay tải
thương của sân bay dã chiến bên cạnh và tiếng bom đạn chợt xa, chợt gần vọng lại
trong những ngày đứng trên bục giảng trường Nguyễn Hoàng Quảng Trị vẫn còn là
những vọng âm đầy âu lo nhưng cũng chan chứa hạnh phúc của tuổi trẻ và ước mơ
một ngày mai đẹp hơn. Bên tôi, tiếng giảng bài có khi lạc đi và buồn buồn vì xa
tiếng mẹ đẻ; nhưng vẫn có được nụ cười dễ thương của thằng Bờm cầm được nắm xôi
vì con đường sư phạm của đời mình không bị không gian và thời gian cắt đứt khi
còn đứng trên bục giảng của những trường đại học Mỹ.
Con Đường Bụi Phấn của tôi cũng gian
nan chìm nổi như dòng sống quê mình. Nhưng khi bể đã lặn, sóng đã êm tới
thời hưu trí, tôi cũng có thể xoa tay bắt chước người
xưa nhìn thế hệ đàn em và nhìn lại chính mình để nói lời ân tình mà kiêu bạt đầy
cảm khái: “Kẻ sĩ làm thầy trên bục giảng, gác kiếm về vườn phủi bụi cổ thư.”
Sacramento, trọng Xuân 2013
Trần Kiêm
Đoàn
Nguồn:
trankiemdoan.net