Trong
Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh nói về thơ : “Từ bao giờ đến bây giờ, từ Homere đến Kinh Thi đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế.”
Thật vậy, thi ca là tiếng lòng muôn thuở muôn nơi, là giọt lệ trộn lẫn với nụ
cười, là tiếng thở than, ngậm ngùi thân phận, hay cũng là tiếng hát ca hòa điệu
khúc yêu đời. Điều đó tương ứng với Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) một nhà thơ vĩ
đại của dân tộc, một tâm tình thao thức cuộc sống, đồng thời cũng phiêu nhiên
tiêu dao cao khiết bồng tênh mây trắng giữa thiên thanh, như
Bạch Vân cư sĩ là biệt hiệu của nhà thơ.
Thơ là người, thơ biểu lộ tâm hồn con người một cách trung thực nhất. Từ nghìn
xưa đến hôm nay, thơ vẫn là tiếng nói chân thành xúc động, phát xuất từ sự rung
cảm của trái tim, là nhịp thở ban sơ khơi mở tự tình, muốn bộc bạch cái tâm, cái
chí, một điều gì sâu thẳm thầm kín, trầm ẩn trong tận đáy lòng của thi sĩ, thi
nhân.
Thân thế Nguyễn Bỉnh Khiêm quê gốc ở Hải Phòng. Làm thơ,
mở trường dạy học, nghiên cứu Kinh Dịch, tinh thông Lý học, tướng số, tiên đoán
như thần vận mệnh đất nước, được tôn vinh như một nhà tiên tri lỗi lạc.
Người đời thường gọi là sấm Trạng Trình linh nghiệm, nhưng nổi bật nhất vẫn là
những tác phẩm thi ca, hàng ngàn bài còn thấp thoáng trong sương mù u ẩn.
Lật từng trang Bạch Vân thi tập ( thơ chữ Nôm ) chúng
ta có thể thấy chân dung Nguyễn Bỉnh Khiêm đầy kinh nghiệm, lịch lãm, từng trải
trên đường đời. Một nhà thơ có ý chí tự do, tự lập, dung hòa tư tưởng Phật Lão
Trang và chan chứa tình yêu thương nhân loại. Cái hay cái đẹp trong thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm, không những ở chỗ ngôn từ ẩn dụ, hàm ý, cách so sánh đối chiếu thẩm
mỹ, ý tứ thâm trầm phong phú mà còn ở chỗ nhà thơ đã thể hiện trọn vẹn cả nếp
sống bình sinh một cách khéo léo, tài tình về những thăng trầm, vinh nhục, những
thương ghét, khen chê của con người, về lẽ đời tan hợp bèo mây, vô thường dâu bể
của thực trạng xã hội thời bấy giờ. Cao hơn nữa, thi nhân đã
diễn đạt một quan niệm triết lý nhân sinh qua tinh thần Phật giáo Thiền tông mà
vào thời đại ấy vẫn còn mới mẻ, mới lạ, ít người hiểu thấu đáo, tường tận hết
được cái tinh túy của đạo Thiền.
Thật vậy, điểm độc đáo của Phật giáo là thuyết minh lý vô thường của vũ trụ nhân
sinh, sự kiện muôn vật đều vô thường được nhà thơ Mây Trắng diễn tả :
Lần lữa ngày qua tháng qua
Một phen xuân tới một phen già
Ái ưu vằng vặc : Trăng in nước
Danh lợi lâng lâng : Gió thoảng hoa
Ngày tháng trôi nhanh như nước chảy qua cầu. Mới đó mà đã hết thời trai trẻ, tuổi già tóc bạc đến quá mau.
Ngoảnh đi ngoảnh lại sắp hết đời, mới hay rằng tất cả mọi ái
ân
hạnh phúc, mọi ưu tư phiền não từ xưa nay đều không có thực, chỉ là ảo ảnh như
bóng trăng in dưới dòng nước. Cho nên lòng thi nhân thấy lâng lâng nhẹ nhõm,
trút sạch hết danh với lợi, nhục với vinh, thịnh với suy… vì mọi thứ đó cũng như
một cơn gió thổi qua làm lay động cành hoa mà thôi. Đó
là thái độ an tịnh trước lẽ vô thường, sinh diệt biến đổi, dù cho tuồng đời có
vần xoay, biến chuyển, thi nhân vẫn thản nhiên, biết chấp nhận những gì xảy đến
với mình bằng một nụ cười nhẹ nhõm phiêu diêu :
Giàu ba bữa khó hai niêu
Yên phận thì hơn hết mọi điều
Khát uống chè mai hơi ngọt ngọt
Sốt kề hiên nguyệt gió hiu hiu
Cuộc sống thật ra chỉ đơn sơ giản dị như vậy thôi, đói ăn khát uống, mệt nghỉ.
Khát thì uống nước chè sương sớm, sốt nóng thì ra đón gió cạnh thềm trăng xanh
biếc bên hiên. Thiền dạy chúng ta rằng, mình không
thiếu gì hết mà trái lại còn dư thừa nữa. Mình dư đủ thứ do vọng niệm bày
đặt ra, do suy tư vẽ vời thêm đấy thôi. Những thứ dư thừa ấy gọi
chung là vô minh, vọng tưởng, nhưng vọng tưởng, vô minh vốn cũng không có
thật, nên chẳng cần phải hoài công trừ nó làm chi, chỉ cần tự tri, tự giác là
yên. Tự biết được bản lai tự tánh Không của mình thì vô minh tan mất như bóng
tối tan biến dưới ánh nắng mặt trời.
Bởi thế, khi về quy ẩn Bạch Vân Am, một miền sơn dã tịch liêu, thi nhân cảm thấy
nhẹ nhàng, thoát khỏi cái áng công danh nặng nề đã đè nặng một thời trên hai vai
kẻ sĩ. Ừ thì thôi vậy, không còn lưu luyến, nấn ná làm chi nữa, bỏ xuống hết
những nhiêu khê thế sự, để thưởng thức khí vị diệu thường giữa thiên nhiên sông
nước vườn hoa xanh hồng, long lanh lấp lánh :
Già đã khỏi áng công danh
Tự tại nào âu lụy đến mình
Nhàn được thú quê dầu nấn ná
Nghĩ xem thế sự biếng đua tranh
Hồ tây thuyền nổi hoa mai bạc
Song bắc cầm xoang vừng nguyệt thanh
Ai hỏi : Làm chi vui nữa ?
Thưa rằng : Một sự làm lành
Tất cả đều do tâm tư, suy nghĩ của mình tạo ra, thi sĩ hiểu sâu xa được điều đó
nên phát tâm đại nguyện chỉ làm mọi việc thiện lành. Đó là niềm hoan hỷ, an vui chơn thật nhất. Niềm vui thong dong,
phóng khoáng, không dính dáng đến chuyện thị phi, hơn thua, phải trái của thiên
hạ.
Đã về quy ẩn, tất nhiên không còn quyền hành, cho nên chẳng có khách nào ruổi
xe ngựa đến cầu cạnh. Điều thú vị của nhà thơ là không những thương yêu
con người mà còn bầu bạn với loài vật nữa, thể hiện lòng bao dung vô
hạn :
Bạn có cá tôm dầu được thú
Cửa không xe ngựa bởi không quyền
Ngày ngày tiêu sái nhàn vô sự
Tuy chửa là tiên ấy cũng tiên
Thật là tự tại tự do, an nhiên tuyệt diệu biết bao ! Khi mà :
Ngày ngày tiêu sái nhàn vô sự
Tuy chửa là tiên ấy cũng tiên
Phong thái nhàn nhã đó, chẳng khác gì phong thái của thiền sư đốn ngộ thượng
thừa. Nhà thơ sớm chiều tiêu dao vô sự như một tiên ông thanh thản nhàn hạ. Ra vào, đến đi, giáp mặt cùng mọi người, mọi việc mà vẫn thung dung
mỉm cười vô sự. Vô sự như thiền sư Lâm Tế phát biểu :
“Ngày hôm nay trong mọi sinh hoạt thường nhật của chúng ta, quý vị còn cảm thấy
thiếu thốn điều gì ? Có lúc nào mà sáu đạo thần quang ( mắt,
tai, mũi, lưỡi thân, ý ) của quý vị ngừng chiếu tỏa ? Ai mà
thấy được như thế thì sẽ suốt đời là một kẻ vô sự.
Trong Phật pháp không cần có sự dụng công. Nguyên tắc
là bình thường vô sự. Mặc áo ăn
cơm, đi tiêu đi tiểu, mệt thì đi nghỉ. Kẻ ngu có thể
cười ta nhưng người trí sẽ hiểu ta. Cổ nhân nói : Hướng ngoại tìm cầu để công phu toàn là bọn ngu xuẩn.
Các vị nên tùy nơi làm chủ, nơi nào cũng chân thật, chánh niệm, không để cảnh
duyên bên ngoài lôi kéo… Hãy tin ở diệu dụng đang có của tâm thì sẽ thấy được vô sự.”
Còn nhà thơ Mây Trắng thì nói : “Ngày ngày tiêu sái
nhàn vô sự.” Thật là tương ứng với thiền sư Lâm Tế xiết bao.
Dường như giữa vạn đại thiên thu đã có nhiều trường hợp tương ứng đồng điệu như vậy.
Thở bầu không khí khoáng đạt giữa trời thơ bồng bềnh, lênh
láng như dòng suối reo vui dưới chân đồi đá tảng gập ghềnh.
Trên dặm trường cuộc lữ thi ca, bước đi của thi nhân đã vượt qua mọi phong ba
bão tố của cuồng nộ sân si, đã thoát khỏi mọi đua tranh, giành giật của trò đời
tế toái. Nhẹ thênh như lữ khách dạo chơi, trải rộng lòng ra chứa cả trời mây
non nước. Bước chân thư thả hòa âm cùng thánh hiền, trượng phu, quân tử
nên đến đâu nhà thơ cũng thấy ấm áp mát mẻ đầy những cơn gió mùa xuân lồng lộng
tương phùng :
Lấy chăng ai cấm mặc ai dùng
Hễ của tự nhiên ấy của chung
Non nước có màu lòng khách chứa
Trúc mai làm bạn hứng thơ nồng
Chốn điền viên cũ dầu thong thả
Đạo thánh hiền xưa luống chốc mòng
Song nhật chớ rằng đã hổ
Đến đâu thì cũng có xuân phong
Trong nhà thiền, thường đề cao lòng kiên nhẫn, đức tính nhẫn nhục và khuyên đừng
cố chấp vào nhân ngã. Chúng ta sống ở đời, tuy chưa phải là Phật Thích Ca nhưng
trong mọi việc phải biết rằng người khác cũng như mình, dù cho họ có lỗi lầm,
xúc phạm đến mình thì mình cũng nên nhẫn nhục chịn đựng, chớ đừng nổi giận, tam
bành lục tặc mắng nhiếc, cãi cọ, chửi bới um sùm rồi hùng hổ, dữ dằn đánh đập
lẫn nhau. Nhân ngã là ý niệm phân biệt, chấp người chấp ta.
Thực ra người khác và mình vốn cùng một bản thể, chỉ vì vô minh vọng tưởng nên
mới chia làm hai.
Nhân tức nhân tướng chỉ khách thể, ngã túc ngã tướng chỉ chủ
thể.
Thiền tông chủ trương quán chiếu để xóa bỏ hai ranh giới nhân ngã giữa chủ và
khách đó thành vô phân biệt trí thì sẽ an vui. Con
người chúng ta bị phiền não khổ đau cũng là do chấp nhân, chấp ngã đó mà thôi.
Lời thơ của thi sĩ giản dị mà thâm thúy rất mực thanh thoát
chan hòà :
Chưa dễ ai là bậc Thích Ca
Mọi niềm nhân ngã nhẫn thì qua
Lòng vô sự : Trăng in nước
Của thảng lai : Gió thổi qua
Kìa khách xuân xanh khi trẻ
Mấy người đầu bạc tuổi già ?
Thanh
nhàn ấy ắt là tiên khách
Được thú ta đà có thú ta
Khi mà lòng mình rỗng rang vô sự, không dính không nhiễm vào những cảnh đời lùng
bùng tục lụy thì luôn trong sáng như vầng trăng in dưới hồ nước xanh ngần, dù có
tiền tài, danh vọng, lợi lộc đến bất ngờ cũng xem như không, coi như cơn gió
thoảng qua, đừng chấp chặt ôm giữ làm gì. Kìa xem những người
trẻ trung niên thiếu mà không sống trọn vẹn được đến lúc tuổi già, chính vì
trong lòng thiếu đức kiên nhẫn, thiếu sự chịu đựng, kiên trì đó thôi. Còn
riêng người biết sống lương thiện, biết nhẫn nhục thì lúc nào cũng
an nhàn, thanh thản
như sống ở cảnh tiên. Vui thú cùng thiên nhiên, hân hoan hạnh phúc cùng với
chính mình, trọn một niềm hỷ lạc an lành thanh khiết.
Kiên nhẫn vẫn là một đức tính mà nhà thơ Mây Trắng thực hiện
suốt cuộc đời. Nhà thơ kiên nhẫn chờ đợi thời cơ đến
năm 45 tuổi mới đi thi và đỗ trạng nguyên. Kiên nhẫn làm việc ở triều đình 8 năm, treo ấn từ quan rồi lại kiên
nhẫn ra làm quan tiếp tục giúp đời cho đến gần 70 tuổi mới quy khứ lai từ.
Đức tính kiên nhẫn ấy cũng giống như thi sĩ Rainer Maria Rilke
: “Hãy chờ đợi một cách khiêm tốn và kiên nhẫn, đợi giờ phút khai sinh
ánh sáng rực ngời mới lạ. Ở đây thời gian không thể làm tiêu chuẩn đo lường.
Một năm có kể gì, khi mình là nghệ sĩ thì có nghĩa là nảy nở như cây lá, không
hề bức thúc nhựa cây. Đứng vững lại một cách tín thành
trong tất cả ngọn gió lớn của mùa xuân, không hề sợ hãi nao núng rằng mùa hạ
không trở lại nữa. Mùa hạ nhất định sẽ đến, nhưng mùa hạ chỉ đến cho những kẻ nào biết
chờ đợi. Chờ đợi một cách trầm lặng và cởi mở như là
mình đã có cả vĩnh cửu trước mắt mình. Tôi dã học được điều ấy mỗi ngày
bằng bao nhiêu cơn đau đớn, bằng bao nhiêu nỗi đau khổ mà tôi vẫn cảm tạ : Kiên nhẫn vẫn là tất cả.”*
Kiên nhẫn, chịu đựng, nhẫn nhục là sự tu hành khổ hạnh cao nhất trong đạo Thiền,
thể hiện lòng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Chỉ có những tâm
hồn hoằng đại thâm trầm đó mới làm cho cuộc đời này thêm tốt đẹp hơn lên.
Trên cung bậc thi ca, chúng ta lại lắng nghe những giai điệu tài hoa của nhà thơ
ngân vang lên dưới những bước đi vượt qua mọi chông gai danh lợi, được mất, hơn
thua một cách ngoạn mục khoan thai :
Dửng dưng mọi sự gác bên ngoài
Dầu được dầu thua ai mặc ai
Mùi thế gian nhiều mặn nhạt
Đường danh lợi có chông gai
Vượt qua mọi thị phi, khen chê, khôn dại của trần ai để lên đường về chốn cũ vui
thú điền viên, an dưỡng thân tâm trong thầm lặng :
Thị phi chẳng quản mặc chê khen
Ngu dại trần trần tính đã quen
Cảnh cũ điền viên tìm chốn cũ
Khách nhàn sơn thủy dưỡng thân nhàn
Chốn cũ ở đây là Bạch Vân Am, nơi nhà thơ lui về ẩn cư giữa chốn thôn trang
hoang vắng, heo hút ruộng vườn hoa trổ vào ra, lặng lẽ thảnh thơi với sơn thủy
hữu tình. Tình thơ nồng thắm hương vị thanh bần lạc đạo, phiêu hốt hồn thơ bay vút
trời cao xanh ngần phất phới.
Với tâm tánh thanh tịnh thì tất nhiên trong cuộc sống thường
nhật, thi nhân không hề có thái độ coi thường ai cả mà trái lại, khiêm nhường,
tôn kính hết thảy mọi người.
Sống ở đời, việc xử sự với nhau là khó lắm, phải luôn thận
trọng, tế nhị. Chúng ta nên biết rằng, việc thiện lành hay hung dữ đều do
tự mình gây ra. Vì thế phải tự mình trực nhận, giác ngộ lẽ đạo như kẻ xuất gia
cắt bỏ tóc râu để biểu hiện sự xa lìa thoát khỏi mọi hệ lụy của cuộc đời, không
hề bị ràng buộc, mắc dính :
Khinh dễ làm chi khó bấy là
Dữ lành toàn bởi một mình ta
Giác thân dầu đã hay tu phúc
Thế phát cho nên phải xuất gia
Làm chi lẽo đẽo hoài cho nhọc
Cầu Thích Ca nào để Bụt nhà ?
Bụt hay Phật tức là tâm, là tánh vốn ở trong lòng mình. Bất cứ
ai ai cũng đều sẵn có cả. Vậy thì tốt nhất là biết trở về sống với tự
tánh, tự tâm chứ không cần hướng ra bên ngoài chạy tìm kiếm Phật. Tục ngữ Việt
Nam có câu “Bụt trong nhà lại cầu Thích Ca ngoài đường” là vậy, hay nói như Sơ
Tổ Trúc Lâm :
Bụt ở trong nhà
Chẳng phải tìm xa
Vì quên gốc nên ta tìm Bụt
Sực mới hay chính Bụt là ta
Bụt, Phật, Thế Tôn, Như Lai là chỉ cho Phật Thích Ca thị hiện ở Ấn Độ cách đây
gần ba nghìn năm. Đó là Phật tướng, nhưng vô tướng mới là Phật đích thực như
kinh Kim Cang đã tuyên bố rõ ràng :
Nếu dùng sắc thấy ta
Lấy âm
thanh cầu ta
Kẻ ấy theo tà đạo
Chẳng thể thấy Như Lai
Chữ ta ở đây là tự tánh Phật, là bản thể Như Lai vốn vô tướng không có hình dáng
chi cả. Nếu kẻi nào cứ đuổi theo căn trần, lấy âm thanh và sắc tướng để cầu thấy Phật, thì người
đó lạc nẻo tà ma rồi, chẳng bao giờ có cơ hội kiến tánh hay thấy tự tánh thanh tịnh
của.chính mình được. Có người hỏi thiền sư Lâm Tế :
“Chân Phật là gì, chân Pháp là gì, chân Đạo là gì ?”
Thiền sư đáp : “Phật thật là sự
thanh tịnh của tâm mình, Pháp thật là ánh sáng của thân mình, Đạo thật là
ánh sáng thanh tịnh
chiếu soi khắp chốn. Ba cái vốn là một, đều là giả danh, không
thật có.
Người học đạo chân chính thì phải duy trì chánh niệm về ba đối tượng ấy một cách
miên mật… Nếu quý vị đạt tới tính vô sinh của vạn pháp, biết
rằng tâm là huyễn hóa, thật ra không có một đối tượng nào, một hiện tượng có
thật.
Bất cứ đâu đâu cũng là thanh tịnh
thì đó là Phật rồi.
Này chư vị ! Người hành giả chân
chính thì không nắm bắt Phật, nắm bắt Bồ tát, không nắm bắt những cái gì gọi là
tốt đẹp nhất trong ba cõi. Người ấy một mình thong
dong, không bị sự vật nào câu thúc. Dù trời đất có đảo
ngược, tôi cũng không bị một chút nghi hoặc nào làm cho ngăn ngại. Dù cho
chư
Phật mười phương có xuất hiện trước mắt thì tôi cũng không khởi một niệm vui
mừng. Dù cho địa ngục và ba đường dữ xuất hiện trước mặt thì
tôi cũng không khởi một niệm sợ hãi. Bởi vì tôi đã thấy được tướng không của các pháp.
Khi biểu hiện gọi là có, lúc không biểu hiện gọi là không. Ba cõi đều do
tâm, vạn pháp đều do thức. Cũng vì vậy cho nên tất cả đều là
mộng huyễn, đều là hoa đốm giữa hư không. Tại sao ta phải chạy tìm kiếm,
nắm bắt chi cho mệt nhọc ?”
Trong thơ Bạch Vân cư sĩ, ý thiền bàng bạc khắp nơi mọi chốn, ngay ở sinh hoạt
hàng ngày như mặc áo, ăn cơm, ngồi nghỉ ngơi dưới vườn cây trái hay lang thang
đây đó qua những xóm làng, cô thôn hiu quạnh dạo chơi :
Cơm ăn chẳng quản dưa muối
Áo mặc nài chi gấm thêu
Tựa gốc cây ngồi hóng mát
Đìu hiu ta với một đìu hiu
Sống giữa cảnh quạnh hiu vắng vẻ, tịch mịch, nhà thơ vẫn an lạc, vẫn thưởng thức
được hương vị cô liêu với trăng thanh gió mát nhẹ lồng. Sống trọn vẹn với chính
mình như vậy, thi nhân mới quán chiếu sâu sắc lẽ đời mà chạnh lòng thương xót
cho nhân tình thế thái cứ mãi còn lừa dối, đổi trắng thay đen, phũ phàng bạc đãi
với bao chua cay, mặn nhạt quá đỗi ê chề :
Thế gian biến cải vũng nên đồi
Mặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùi
Còn tiền còn bạc còn đệ tử
Hết cơm hết rượu hết ông tôi
Xưa nay đều trọng người chân thật
Ai nấy đâu ưa kẻ đãi bôi
Ở thế mới hay người bạc ác
Giàu thì tìm đến khó thì lui
Chứng kiến biết bao cảnh đời tráo trở, đãi bôi một cách trắng trợn, tàn nhẫn ấy,
nhà thơ vẫn mỉm một nụ cười an nhiên vô sự :
Chữ rằng : Nhân dĩ hòa vi quý
Vô sự thì hơn kẻo phải lo
Nhà thơ muốn nói rằng, người ta sống ở đời nên lấy sự hòa thuận, hòa hảo, thân
thiết mến yêu với nhau làm điều cốt yếu. Vô sự là một thái độ vô vi, là làm tất
cả mà tâm không chấp vào việc làm, không dính kẹt vào việc gì hết, không kể công,
là rỗng lặng chẳng vướng mắc vào bất cứ điều chi. Đó là phong cách của bậc chí
nhân quân tử, không ham muốn chẳng mong cầu :
Một mai một cuốc một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
Thi sĩ xem giàu sang phú quý như một giấc mộng nên rời bỏ chốn lao xao, nhộn
nhịp, phồn hoa đô hội, về nơi hoang vắng, sống đạm bạc giản dị đơn sơ. Chốn lao xao là chốn quyền lực, bè phái, mua danh bán chức, tham
ô, hối lộ, tham nhũng để cuối cùng đưa đến đấu tranh, giành giật, chém giết lẫn
nhau thôi. Cái chốn hỗn độn đầy mưu mô, xảo quyệt ấy, nhà thơ
đã xa lánh từ lâu rồi.
Giờ đây nhàn nhã ra vào hiên mai ngõ trúc, nhẹ vỗ tay cười hát nghêu
ngao :
Nép mình qua trước chốn lao xao
Mấy sự bên tai gió thổi phào
Cửa trúc vỗ tay cười khúc khích
Hiên mai vắt cẳng hát nghêu ngao
Nghêu ngao, vếu váo ngâm nga những bài thơ xưa, khề khà dăm ba chén rượu cùng
bằng hữu tương tri giữa đất trời thoải mái, có gió trăng gần gũi, có tiếng cười
thân mật. Vất ngoài tai mọi đối đãi, so sánh giàu nghèo,
hơn thua phải trái… của thế sự trần ai. Buông và buông xuống sạch sành sanh, xem
mọi sự như không, cho trôi hết như nước chảy qua cầu :
Giàu mặc phận khó đâu bì
Đọ
thanh nhàn đáng nhất nhì
Vếu váo câu thơ cũ rích
Khề khà chén rượu hăng xì
Trăng
thanh gió mát là tương thức
Nước biếc non xanh ấy cố tri
Thế sự đôi co dầu thế sự
Rũ không thảy thảy chẳng hề chi
Thi sĩ hát ca trên tinh thần vô úy, không sợ hãi, không âu lo. Đó là tâm thiền
viên dung cùng tuyệt. Thiền là sống không tham lam, chẳng sân hận, si mê, nên
thoát khỏi mọi phiền não, khổ sầu. Khi mọi sầu khổ tan biến thì an vui liền xuất
hiện liền lập tức ngay bây giờ :
Ngỡ thú vui là thú ở đâu ?
Chẳng ngờ vui ở chốn chẳng âu
Hết tham, dứt chợ nên non vắng
Còn lụy, trường ca biến lệ sầu
Nếu còn thích chen chân giữa phố hội phù hoa đầy những sắc màu thanh âm huyên náo thì tâm dễ dao động, dễ khởi
lên nhiều tà ý tham si, ti tiện nên thi nhân chọn lối hoang lương, lên rừng núi
hòa cùng thông cùng trúc. Ngày ngày cùng bạn đạo nghiên cứu kinh sách thánh hiền,
đêm đêm trải lòng sáng chiếu diệu vời cùng ánh trăng lấp lánh dưới hồ xanh :
Lánh trần đến náu thú sơn lâm
Lá thông đàn tiếng trúc cầm
Sách cũ ngày tìm người hữu đạo
Ao thanh
đêm diễn nguyệt vô tâm
Vô tâm là đã đạt tới cảnh giới thượng thừa rồi, nhưng dẫu vô tâm mà thi nhân vẫn
ân cần khuyên người ta nên buông bỏ lòng tham lam, ham muốn xuống đi, vì tham
lam dẫn đến sân hận, si mê. Đó là nguyên nhân của mọi khổ đau trầm thống tang
thương của kiếp người. Hãy biết sống tri túc, biết đủ là tốt
đẹp rồi.
Đấy là lời khuyên răn, nhắn nhủ chân thành nhất, đủ thấy tấm lòng từ bi thi sĩ
thật hết sức thiết tha :
Đủ no hay vậy xin thong thả
Sục sạo làm chi luống nhọc nhằn
Nếu tham hơn thì sẽ thiệt
Hãy ghi lời ấy để mà răn
Phải chăng, đó là thông điệp yêu thương mà thi nhân thầm nhắc nhở chúng ta ?
Hãy thương yêu nhau đi hỡi nhân loại trên mặt đất thân thiết này, mặt đất ngàn
đời là đất mẹ của chúng ta. Hãy khai mở một thông lộ mới cho hoa lá yêu thương bừng trổ rực ngời,
hỡi con người khắp mười phương thế giới, phải tự tri, tự biết mình đang ở đâu,
đang làm gì, thì bước đi vững chãi thảnh thơi. Đừng có giật giành tranh
đấu, sục sạo bon chen, chiếm đoạt chiếm hữu gì thêm nữa
mà nhọc nhằn tan nát, đoạn trường khổ lụy thêm thôi.
Ơi chao ! Hương vị thi ca của nhà thơ
Mây Trắng thấm đượm tinh thần Phật giáo Thiền tông. Ý thức được cõi nhân
sinh thống khổ, vô thường, biết xót xa trước niềm đau sinh lão bệnh tử, nên thi
nhân muốn giải phóng, giải thoát mọi phiền não khổ đau bằng cách chuyển hóa nội
tâm, buông bỏ danh lợi, tham sân si, thay đổi thái độ sống, biết áp dụng pháp
thiền Hiện pháp lạc trú vào thực tế hài hòa trong từng điệu thở, mở rộng lòng
yêu thương vô lượng đến với muôn loài vạn vật đất trời giữa dòng đời miên viễn
thiên thu.
Cũng như Tuệ Trung Thượng Sỹ về ở nơi thôn dã Tịnh Bang hoang lương cô tịch để
thể nhập lẽ huyền vi thì Nguyễn Bỉnh Khiêm quy ẩn Bạch Vân Am để hàm dưỡng tâm
hồn khiêm cung giữa trời thơ đất mộng trầm hùng. Chúng ta hãy nghe thi nhân diễn
tả phong cảnh Bạch Vân Am bằng thơ chữ Hán :
Bạch Vân Am bạch, bạch vân hương
Cận tiếp giang lâu đối tịch dương
Tọa thượng tiếu đàm xuân cánh hảo
Môn trung ngâm vịnh bút sinh hương
Số bôi minh nguyệt lưu hoa ảnh
Bán chẩm thanh phong nhạ trúc lương
Sơn thủy diệc tòng nhân trí nhạo
Giá ban ý vị thục năng tường ?
( Bạch Vân Am cạnh làng mây
Lầu sông soi bóng trời tây xế chiều
Núi cười xuân hứng phiêu diêu
Câu thơ ngọn bút dặt dìu bay hương
Trăng lồng hoa lộng chén hường
Gió lay bay trúc bên giường thoảng qua
Trí nhân non nước mặn mà
Trong vui dường ấy lòng ta ai tường ? )
Bạch Vân Am được dựng bên dòng sông thơ mộng bồng bềnh, thấp thoáng sương mù và
mây trắng. Nắng chiều bảng lảng chập chờn trong tịch mịch lặng
yên vắng vẻ. Nghe núi cười reo vui giữa mùa xuân mà hồn
thơ cảm hứng ngân rung. Gió trúc đung đưa, trăng hoa hòa cùng chén rượu
nồng nàn hoan hỷ. Có mấy ai hiểu được niềm khinh an tiêu sái tràn đầy thiền vị
ấy chăng ? Sống giữa cảnh thiên nhiên, sơn
thủy hữu tình ấy, lòng thi nhân ghi nhận một niềm hân hoan thi vị diệu vời.
Rồi lặng lẽ một ngày, sau thời loạn lạc chiến chinh, nhà thơ làm một chuyến hành
hương nhàn nhã, quay về chốn cũ thăm viếng chùa xưa :
Loạn hậu trùng tầm đáo Phổ Minh
Viên hoa dã thảo cựu nham quynh
Bi văn bác lạc hòa yên bích
Phật nhãn thê lương chiếu dạ thanh
Pháp giới ưng đồng thiên quảng đại
Hương nhân do thuyết địa anh linh
Liêu liêu cổ đỉnh kim hà tại ?
Thức đắc vô hình thắng hữu hình
( Sau loạn lại tìm đến Phổ Minh
Hoa vườn cỏ nội lối rêu xanh
Văn bia mờ nhạt hòa khói biếc
Mắt Phật trầm ngâm chiếu đêm thanh
Pháp giới bao la trời rộng lớn
Người dân vẫn nói đất thiêng linh
Vắng không cổ đỉnh rày đâu tá ?
Mới biết vô hình thắng hữu hình )
Chiến tranh đã qua, nhà thơ tìm đến thăm chùa Phổ Minh ở Nam Định. Cảnh chùa xưa
bàng bạc hoang vắng trong nắng chiều tịch liêu. Trầm ngâm ánh mắt “từ nhãn thị chúng sinh” của Đức Phật nhìn sâu vào
đêm dài sinh tử của nhân gian trường mộng như thấy mười phương pháp giới chập
chùng. Pháp giới có sự pháp giới, lý pháp giới, lý sự vô ngại pháp giới và
sự sự vô ngại pháp giới. Sự sự vô ngại pháp giới là tất
cả giới hạn, phân cách của sự vật đều có thể dung thông với nhau.
Một tức nhiều, nhiều tức một, lớn vào nhỏ, nhỏ vào lớn, trùng trùng vô tận vô
biên như kinh Hoa Nghiêm nói :
Nhược nhân dục liễu tri
Tam thế nhất thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhất thiết duy tâm tạo
( Nếu người muốn biết rõ
Tất cả Phật ba đời
Phải quán pháp giới tánh
Đều do tâm tạo thôi )
Nếu ai muốn biết rõ ràng, tất cả chư Phật ở trong khắp ba đời quá khứ, hiện tại,
vị lai thì phải quán tánh chất của pháp giới. Hết thảy chúng sinh ai ai cũng đều
có bản tánh, như con người thì có tánh thiện, tánh ác, tánh nam, tánh nữ… Con
vật thì có tánh trâu, tánh bò, tánh gà, tánh vịt… Còn sự vật thì có tánh mềm,
tánh cứng, tánh nóng, tánh lạnh..
Muôn loài vạn vật đều có tánh riêng biệt của nó.
Do đó gọi là tánh của pháp giới.
Tất cả tánh của pháp giới đều do tâm tạo ra. Tâm tạo ra pháp
giới Phật, Bồ tát,
Thanh văn, Duyên giác, Trời, Người, A tu la, Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục.
Mười pháp giới đó cũng không rời một niệm tưởng trong tâm này.
Nhà thơ tự hỏi “Cổ đỉnh kim hà tại ?” Cái vạc nay còn đâu ? Cái vạc
lớn trong chùa đã bị giặc Minh phá hoại tan nát mất rồi. Trong một thoáng trực
giác lóe sáng, tự nhiên nhà thơ bỗng thấy “vô hình thắng hữu hình” Cái không có
hình tướng thì hơn cái có hình tướng, vì cái có hình tướng đã hư hoại, còn cái
vô tướng vẫn hiện hữu trong tâm.
Nhà thơ Mây Trắng một chiều vãng cảnh chùa xưa tĩnh mịch, suy nghĩ về giáo lý
Hoa Nghiêm trùng trùng duyên khởi, rồi lại liên tưởng đến cái vạc bằng đồng, một
vật hữu hình nay không còn nữa mà hoát nhiên trực ngộ ra lẽ thực tướng vô tướng,
bất sinh bất diệt của nhà thiền. Lãnh hội được pháp giới duyên khởi trùng trùng
vi diệu đó, lòng thi nhân mở rộng bát ngát, thương yêu tất cả thập loại chúng
sinh :
Đại tiểu nghi tương an
Cơ thẩm mặc tương xúc
Đế đức bản hiếu sinh
Thân vật manh sát lục
( Loài lớn nhỏ nên để cho yên
Phải xem xét cơ sự mà chớ xúc phạm nhau
Đức của trời đất vốn hiếu sinh
Hãy thận trọng chớ giết hại bừa bãi )
Hiếu sinh là không nên sát hại sinh vật. Đây là giới cấm thứ nhất trong
ngũ
giới của Phật giáo. Sát sinh ở đây chỉ cho hành động giết
người là một hành động độc ác, mất nhân tính, không thể chấp nhận được trong
cuộc sinh tồn. Lòng thương yêu của nhà thơ không những đối với con người
mà còn đối với các loài vật nữa. Thật cảm động xiết bao !
Rào rạt từ đầu đến cuối, hồn thơ chan chứa bao dung vẫn không rời chữ tâm chữ
lòng như thầm nhắn nhủ chúng ta hãy giũ lòng, giữ tâm cho sáng suốt thanh tịnh, nghĩa là phải tỉnh thức không thì
nguy hiểm vô cùng :
Ngụy mạc ngụy nhân tâm
Nhất phóng tiện quỉ quắc
Quân tử cầu sở chỉ
Chí thiện tư vi cực
( Không gì nguy hiểm bằng lòng người
Buông tuồng cái tâm thì đều là quỷ quái
Bậc quân tử tìm cách dừng lại
Chí thiện ấy là chỗ cùng tột )
Đó là cái thấy của bậc tỉnh thức, của một người đã đi sâu vào lòng đời với biết
bao kinh nghiệm lịch lãm, đã chứng kiến biết bao cảnh nhân tình thế thái đổi
thay, mới nói được như vậy. Nhà thơ đã thấu thị nhân sinh, đã thấu đạt con người
đau khổ hay hạnh phúc đều do tâm mình, lòng mình mà ra cả như thi hào Nguyễn Du
đã thấy “Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.”
Thiền tông có Thập mục ngưu đồ, mười bức tranh chăn trâu, diễn
đạt cách chăn con trâu tâm đầy vọng động này. Tâm ví như con trâu, nếu
không chăn dẫn thì nó sẽ chạy lung tung đi phá hoại mùa
màng của người khác. Cho nên nhà thơ nói, bậc chí nhân quân tử là người phải
biết dừng cái tâm hỗn loạn, cái tâm độc ác phá hoại, cái tâm điên đảo vọng tưởng
lại, biết hướng tâm về chỗ chí chân, chí thiện và chí mỹ để lợi lạc cho toàn thể
xã hội trong cõi người ta.
Là một nhà thơ vĩ đại, Nguyễn Bỉnh Khiêm như cây cổ thụ
tỏa rợp bóng mát từ thế kỷ XVI đến bây giờ, đã để lại cho chúng ta gia tài thi
ca vô cùng giá trị. Một tác phẩm nghệ thuật chỉ tuyệt vời, có
hồn là khi nào nó xuất phát từ một sự đòi hỏi nhu cầu của tâm tư, của ý chí.
Cái tâm, cái chí là nền tảng mà nhà thơ Mây Trắng cất lên tiếng nói đích thực
nhất của chính mình như thi nhân đã viết trong lời tựa tập thơ Bạch Vân Am : “Ôi ! Nói tâm là nói về cái chỗ mà chí
đạt tới, vậy mà thơ lại là để nói lên cái chí. Có kẻ
chí ở đạo đức, có kẻ chí để ở công danh, cũng có kẻ chí ở sự nhàn dật. Tôi lúc nhỏ chịu sự dạy dỗ của gia đình, lớn lên bước vào giới sĩ
phu, lúc về già chỉ thích nhàn dật. Lấy cảnh núi non
sông nước làm vui, rất là vụng về trong việc làm thơ.
Tuy nhiên, cái bệnh yêu thơ lâu ngày tích chứa lại, chưa chữa được khỏi vậy.
Mỗi khi thư thả cảm hứng mà ngâm vịnh hay ca tụng cảnh đẹp sơn thủy
hữu tình hoặc là tức sự, tự thuật… Hết thảy đều ghi lại thành
thơ nói về cái chí của mình.” Như vậy, cái chí, cái tâm của nhà thơ là
thanh thản nhàn du theo thể điệu tiêu dao nhàn dật, vắng bặt hết mọi lo
âu, sầu khổ, não phiền :
Thanh
nhàn dưỡng được tính tự nhiên
Non nước cùng ta đã có duyên
Dắng dỏi bên tai đàn suối
Dập dìu trước mặt tán sen
Xuân về hoa nở mùi hương nức
Khách đến chim mừng dáng thân quen
Chốn ấy nhàn du được thú
Lọ là Bồng đảo mới tiên
Cõi miền Tịnh độ hay Bồng lai tiên cảnh ấy chẳng đâu xa, nhà thơ Mây Trắng đã
thấy ngay nơi tâm mình và khơi dậy trong lòng chúng ta tất cả sự phong phú miên
man của cuộc sống đời thường. Khơi mạch suối nguồn yêu thương, mở ra con đường
thênh thang sáng tạo, hướng về thế giới nội tâm thâm viễn. Hãy
đi vào bên trong sâu thẳm tâm linh, dò dẫm tận đáy lòng phong kín mà từ đó, đời
sống đã trào tuôn lai láng dạt dào bao mới mẻ, mới lạ không ngừng luân lưu trôi
chảy.
Tuyệt vời thay ! Trên ngõ về im lặng,
nhà thơ Mây Trắng lặng lẽ mỉm cười như muốn gởi xuống cuộc đời những dòng thơ
nồng nàn hơi thở, bát ngát tình thâm và đậm đà thấm thía hương vị thâm thúy của
thi ca.
Chú thích:
* Rainer Maria Rilke. Thư gởi người thi sĩ trẻ tuổi.
Hoàng Thu Uyên dịch. Nhà xuất bản An Tiêm, Sài
Gòn 1969.
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, trích trong tác phẩm :
Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội 1997
Tâm Nhiên