Đặng Công Hanh
Khi
nói đến “Phiền não tức Bồ Đề” các luận sư, các cao tăng xưa nay đã đưa ra nhận
thức rằng chính vì đau khổ, con người mới tìm được an lạc. Như vậy, khổ đây là
nhân duyên tạo nên an lạc và giải thoát, nói một cách tương tự, chính hoa sen
thơm ngát và tinh khôi đã vươn lên từ bùn lầy hôi tanh. Xác nhận sự hiện hữu của
khổ đau như một quan điểm về nhận thức chứ không phải ca tụng cuộc đời trầm luân
khổ hải để đi tìm “thú đau thương”, mà là xác nhận tính cách cần thiết của những
chất liệu lý tưởng, để tiếp xúc thường trực với “đệ nhất khổ đế”, chân lý căn
bản của Tứ Diệu Đế. Bởi vậy, các vị Bồ Tát đã lấy cuộc đời khổ đau làm môi
trường rèn luyện, và lấy chất liệu đó để nuôi dưỡng lý tưởng giải thoát trên
mảnh đất tam giới ô nhiễm. Nuôi dưỡng cho ý nguyện và ước vọng này là nhận thức
thường xuyên về khổ đau hiện thực của kiếp nhân sinh.
Kinh “Nhất thiết lậu hoặc” có
biện giải về lậu hoặc tức phiền não và phương pháp chuyển hóa một cách sâu rộng,
có thể làm kim chỉ nam cho những ai quyết tâm tu học.
Theo kinh “Nhất thiết lậu hoặc”
trình bày thì lậu hoặc tức là phiền não có thể nhìn trên 3 dạng thức:
Dục lậu: những bám
chấp, vướng víu đối với 5 đối tượng giác quan là sắc, thanh, hương, vị, xúc và
ý. Những tham đắm này đưa đẩy con người lọt vào (lậu) cõi dục nên gọi là dục
lậu.
Theo A - Tì - Đạt - Ma câu xá
thì cõi dục là cõi mà chứng sinh còn mong cầu ái dục, khát ái, mong muốn những
đối tượng thỏa mãn ái dục. Theo quan điểm của Phật học, thế giới là toàn bộ gồm
chủ thể bên trong và những đối tượng bên ngoài (nhưng kỳ thực chẳng có gì nhất
định là trong hay ngoài), vì thế nên, thế giới được nhìn qua biểu hiện sự vận
hành có sự hỗ tương giữa lục căn (nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt thân và ý); lục trần
(sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp) và lục thức (nhãn thức, nhỉ thức, tỷ thức,
thiệt thức, thân thức, ý thức). Danh từ nhà Phật gọi tất cả là 18 giới. Khi
chúng tương giao, tác dụng hòa hợp thì trở thành những chuỗi vận hành của sự
sống, sinh khởi vạn pháp ở trong thế giới tâm sinh lý.
Chẳng hạn, khi mắt nhìn thấy
sắc, thoạt đầu mới thấy được hình dạng, thấy có màu hay không.v.v... nhưng chưa
phân biệt rõ ràng, tiếp đến cần có sự hỗ trợ can thiệp của ý thức và chính ý
thức tập trung phối kiểm những dữ kiện của 5 thức, cảm quan, dùng ký ức và suy
tưởng mới quyết định rõ ràng. Liền ngay đó, sự tiếp xúc giữa mắt và sắc, thọ sẽ
phát sinh có thể tạo ra cảm giác: hoặc khó chịu đó là khổ thọ, hoặc thích thú dễ chịu đó là
lạc thọ, hoặc bình thường gọi là xã thọ...
Sự hoạt động của 5 thức cảm
quan trên dòng ý thức được ví như gợn sóng và nước: sóng là 5 thức cảm quan và
nước là dòng ý thức. Năm thức cảm quan chia thành 2 loại: phù trần căn và tịnh
sắc căn là hệ thống thần kinh cảm giác hoạt động rất vi tế.
Toàn bộ sự vận hành của căn,
trần, thức (trừ ý thức) dẫn đến trạng thái khổ, lạc, xã hoàn toàn rất tự nhiên,
thụ động nên gọi là vô nhân, đúng ra nó do nhân quá khứ từ
bao đời, nay là quả, thể hiện theo luật nhân quả nghiệp báo.
Quá trình vận hành cũng diễn
biến tương tự cho tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân va chạm. Cái nghe, cái
thấy, cái ngửi, cái nếm hoàn toàn không khổ, không lạc, chỉ xả. Chính
thân thức mới thọ khổ, thọ lạc, con người
thường đồng nhất nó với cái ta,
thành ra cái ta chỉ là ảo tưởng. Niềm tin có ta là có khổ, khổ cho cái thân ta,
“hữu thân hữu khổ” là một cảm nhận thông thường của người đời chứ không phải là
tư tưởng triết lý sâu xa nào cả. Nhà đạo học Lão Tử cũng chẳng đã than “ta có vạ lớn vì ta có cái thân, nếu ta không có cái thân thì sao có vạ
lớn được” [Đạo đức Kinh].
Phật giáo cũng đồng quan điểm
như vậy, một phần hữu thân hữu khổ, nhưng thấy sâu xa hơn, thấy cái ta chính là
nguồn gốc của mọi khổ não và phát sinh ra vô vàn cái khổ khác cho chính ta và
đồng loại như gian dối, tham lam, ích kỷ, hận thù, sát hại, chiến tranh.v.v...
Nhưng cũng có quan điểm cho
rằng khi không còn có ý thức về cái ta thì có sung sướng hạnh phúc. Đây là quan
điểm hư vô, Phật học gọi là đoạn kiến và không chấp nhận. Phật học nhìn thẳng
vào cái ta và cho rằng nó chỉ là giả tạm là ảo tưởng, cái nhìn trí tuệ này con
người mới tìm được an lạc cho chính mình, cho tha nhân và cho cả thế giới quanh
ta.
Hữu lậu: là tham ái
cõi sắc giới và vô sắc giới. Trong cõi sắc chỉ còn 14 giới trong đó 18 giới đã
loại trừ 2 căn mũi, lưỡi và 2 tỷ thức, thiệt thức. Thác sinh lên cõi sắc chỉ cho
nhưng ai ly dục đối với loại thực phẩm thức của mũi và thức của lưỡi. Trong cõi
vô sắc chỉ còn có ý, pháp và ý thức giới - những ai
ly dục hoàn toàn với sắc mới thác sinh ở đây. Đây là phiền não của những
người tu tập.
Vô minh lậu: là không
hiểu rõ nguyên lý Tứ thánh đế. Đây là
phiền não cơ bản của tất cả chúng sinh. Tứ thánh đế là 4 sự thật để đạt chân lý
vi diệu cứu cánh tức Niết Bàn. Bốn thành đế, gồm: khổ, tập, diệt, đạo. Khổ là
thánh đế thứ nhất mà ta phải nhận diện tìm hiểu. Tập là những nguyên nhân đưa
tới khổ, gồm những dinh dưỡng vật chất và tinh thần cần phải chuyển hóa. Diệt là
sự vắng bặt, là sự loại trừ các nguyên nhân đưa tới đau khổ. Đạo là con đường,
là các phương pháp thực tập đưa đến sự vắng bặt của những nguyên nhân gây đau
khổ.
Theo Kinh Thắng Man, đức Phật
chỉ dạy một đế là Diệt đế vì theo
các luận
sư ba đế còn lại là Khổ, Tập, Đạo thuộc vào
tướng hữu vi nên vô thường
mà vô thường là hư vọng, là giả lập. Như vậy Tứ thánh đế
hàm dung tính nhất quán triệt để, tương quan mật thiết không thể tách rời nhau
và chứng Diệt đế tức Niết Bàn có nghĩa là thấy tận được Khổ là không thật, là
huyển hóa có tính giai đoạn và thấy được nguyên nhân của khổ (Tập đế) - đó là
lối nhìn sai lầm, là do tri giác sai lầm, là vọng tưởng sinh ra dục, sinh ra ham
muốn đam mê. Tâm ý bị đắm trước, bị tư kiến, thêu dệt hư vọng dẫn đến những cấu
nhiễm về thân tâm, về vũ trụ từ bao đời, bao kiếp đã huân tập, thấy có cái ta và
cái của ta từ đó mà khởi lên tham lam, sân hận, si mê. Vậy để đoạn trừ lối nhìn
sai lạc này ta phải thay đổi cách nhìn và đi theo phương pháp Bát chánh đạo của đức Phật (Đạo đế) đã
hướng dẫn, trong đó đứng đầu là chánh kiến tức thấy đấng như thật. Thấy đúng như
thật thì Niết Bàn hiển lộ, Khổ, Tập sẽ tự tiêu tan. Như vậy Diệt đế tức Niết Bàn
không đâu xa ở ngay trước mắt của ta, chỉ cần ta thay đổi cái thấy cách nhìn.
Nhưng để hiểu Niết Bàn ra làm sao, như thế nào ta Kinh Thắng Man dạy: “Niết
Bàn siêu việt mọi tư duy mô tả". Chỉ cần ta theo đúng con đường mà đức Phật
dạy, nương theo đó mà tự tu, tự chứng khi đó ta biết nó ra sao, tựa như người
nếm mật thì chỉ riêng người ấy mới biết được vị ngọt của mật thế nào, làm sao mô
tả cho người khác cảm nhận được hương vị đó.
Theo các kinh luận, Đức Phật đã
dạy một phương pháp tối thượng đó là sự chuyển hóa năng lực của Tâm, tức chuyển
hóa tam độc tham ái, sân hận, si mê thành giới, định, tuệ.
Nhận diện ra vọng tâm là sào
huyệt của cái khổ. Khổ cũng như vui là một cảm thọ do đó không có cảm thọ thì không
khổ. Cảm thọ tức là nhận vào, thu nạp vào một cảm giác - người ta thường quen
nói “cảm thọ của tôi”. Trong cuộc sống, dù ở hoàn cảnh nào thuận lợi hay không
thuận lợi, dù giàu sang phú quý, dù cơ hàn, con người vẫn cảm thấy thiếu thiếu
một cái gì, cái gì đó chưa trọn vẹn, chưa toại ý thỏa lòng, với các mối bận tâm
thế tục như còn mất, vinh nhục, hơn thua, sống chết.v.v... nói chung là khổ vì
tâm dao động bởi những cuộc thăng trầm, thị phi.
Nguồn gốc của đau khổ chính là
sự cảm thọ do chấp ngã, đeo bám vào quan niệm về cái tôi hay còn gọi là
ngã tưởng. Kinh Kim Cương gọi là “vô minh cơ bản” tức là si mê. Nếu đã chấp có ta và đồng thời
chấp cái khác ta, những gì thích hợp với ta thì lo toan chiếm hữu (tham), không phù hợp thì rẽ rúng, ghét bỏ (sân). Các vọng tưởng căn bản chính là sự
phiền não phát sinh ra sinh tử luân hồi, thiên đường và địa ngục, mê và
ngộ.v.v...
Theo Duy thức học, vọng tưởng
căn bản còn được gọi là những bất thiện
tâm sở, có nghĩa tất cả đều sở
hữu của Tâm, tâm thì vô hình vô tướng nhưng có một sức mạnh chi phối toàn bộ
sinh tử, mê ngộ, vui buồn, đau khổ và hạnh phúc.v.v.. Vấn đề phải nhận thức ra
rằng tâm này rất hoang vu và lắm gai góc tạo ra đau khổ cho chính mình và những
người chung quanh.
Trong kinh Tăng nhất A hàm, đức Phật có dạy rất
nhiều lần:
“Ta không thấy một Pháp nào khác, này các vị khất sĩ, có thể đưa đến lợi
ích lớn như là Tâm được điều phục, được hộ trì, được phòng hộ, được bảo vệ. Tâm
được điều phục, được hộ trì, được phòng hộ, được bảo vệ, này các vị khất sĩ, sẽ
đưa đến lợi ích lớn”.
Như vậy tâm thức giữ một vai
trò căn bản trong những cảm nhận của con người về sự đau khổ và hạnh phúc. Bước
đầu điều phục tâm là nhận diện cái khổ chính là sự chấp ngã, tri giác sai lầm là vọng
tưởng, là vô minh. Ngã chấp là xác tín rằng có một chủ thể thường gọi là Ta độc
lập trong cái hình hài này. Cái ảo tưởng này đã bó chặt con người vào dòng sinh
tử luân hồi từ vô lượng kiếp và ngay trong thực tại của kiếp nhân sinh còn quy
lụy con người sống không dược an lạc và có lắm hành vi bất thiện gây đau khổ cho
chính mình và đồng loại. Thành trì của ngã chấp biểu hiện qua bốn phạm trù ý
tưởng: ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả.
Theo quan điểm nhà Phật, đây là
bốn vọng tưởng, chỉ là cái nhân sai lầm, vô minh dẫn đến vô vàn đau khổ. Vì vô
minh nên có thể dạng tâm thần bất trị hay một tâm thức không thể kiểm soát được,
luôn luôn có một động lực thúc đẩy đứng phía sau mọi hành vi, ta có thể xem nó
là nghiệp. Nghiệp có nghĩa là mọi hành vi đã
giam hãm ta trong chu kỳ tiêu cực như sân hận, nghi ngờ, ác kiến, kiêu mạn và ái
dục.v.v...
Con người hiện hữu gọi là y báo
luôn luôn đồng hành với hoàn cảnh là chánh báo. Sự tác thành một con người,
theo cách nhìn của Phật học, ngoài nghiệp đời trước do kiết sinh thức đem lại,
còn chịu sự tác động của môi trường xã hội, mối tương quan gắn bó này lại thuộc
về quả dị thục. Mỗi thiện nghiệp hay
ác nghiệp đều sinh khởi ra hoặc là thói quen, quả báo chính thức trên thân thể
hoặc là hoàn cảnh. Từ quan điểm này,
cho thấy nghiệp là nguồn gốc của sự đau khổ và sự chấm dứt đau khổ là một thể dạng cao nhất của hạnh phúc.
Chính là giải thoát hoàn toàn.
Giải thoát theo ý nghĩa là đạt
Niết Bàn, Niết Bàn là tắt lịm, tỉnh tịch. Làm tắt lịm những nguyên nhân của đau
khổ, dứt tiệt những nguyên nhân gây đau khổ và đạt đến trạng thái an lạc, không
còn bị khổ đau dằn vặt nữa, đó gọi là giải thoát, là Niết Bàn hay là diệt độ. Ở
mức độ thân sâu siêu việt hơn, giải thoát là cái nhìn mọi sự thể dưới ánh sáng
của tuệ giác qua đó tất cả đều là biểu hiện của Pháp thân, dù đó là mùa xuân hay
mùa đông, dù là ao tù lầy lội hay lung linh hùng vĩ.
Chuyển hóa đau khổ tức là
chuyển hóa phiền não thành bồ đề. Bồ đề có nghĩa là giác ngộ. Trong thời Phật
giáo nguyên thủy, Bồ đề là từ chỉ trạng thái chứng ngộ được Tứ thánh đế, trong
Đại thừa khái niệm Bồ đề được hiểu là trí huệ nhận ra sự không khác biệt giũa
Niết bàn và luân hồi sinh tử, giữa khách thể và chủ thể. Bồ đề là chứng được trí
Bát nhã, nhận ra được tính Không của thế gian, nhận biết
tất cả mọi tồn tại đều là duyên khởi nên hệ luận tất yếu là bản chất của vạn
pháp đều mang ý nghĩa Không.
Không ở đây chỉ là không có tự
tính, nội hàm là từ bản chất của các pháp không có bản tính độc lập, tùy thuộc
vào các pháp khác mà hiện hữu (cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái
kia sinh).
Hầu hết các kinh sách đều nêu
ra 3 cánh cửa vượt thoát khổ đau là buông bỏ, phát bồ đề tâm và chánh kiến.
Chánh kiến là cái nhìn đúng như
thật về mình, về mọi người và về thế
giới không bị tam độc tham sân si chi phối và bị giả tướng đánh lừa. Sự diễn tả
nội dung chánh kiến luôn luôn bắt đầu từ những tình huống dễ hiểu, chẳng hạn nói
chánh kiến là cái thấy về thiện ác, nhân quả: ăn mặn thì khát nước, gieo gió thì
gặt bão.v.v... Tóm lại, bất luận lời nói nào, ý niệm nào chứa đựng được hạt chân
lý của Phật Pháp đều có ít nhiều chánh kiến. Ví dụ như khi chấp ngã, chấp cái
ta, thì cái nhìn đã phân ranh cái bên trọng và bên ngoài ta và mãi bị cuốn hút
theo những đối tượng bên ngoài của tham và của sân. Cái ta đã
lãng quên thực tại đang là nơi bản thân sự sống và không nhận thức được thực tại
sự sống, chính là khởi điểm của vô mình.
Cái ta là một ảo tưởng có nguồn
gốc từ những ý niệm mơ hồ, và ảo hóa không cùng, nó chỉ được phát hiện dưới
nhiều hình thức như tính ích kỷ, tham dục, nôn nóng, chấp hữu, đối kháng.v.v...
Thấy được như vậy có thể tạm gọi là có
chánh kiến về Tính không và đó cũng còn gọi là đến bờ bên kia (bà la mật) hay sự giải
thoát khỏi ranh giới hữu hạn của bờ bên này.
Từ bỏ là hạnh xả có trí tuệ,
thoát ly được cách nhìn có cái ta riêng lẻ, biệt lập với những cái không phải
ta, mà không thấy được vạn hữu đều chịu sự chi phối của lý duyên sinh nhân quả
trùng trùng giữa cái ta với mọi người, mọi vật trong không thời gian. Vậy từ bỏ
cái thấy, cái nhìn nặng ngã chấp thì đã giảm trừ được vô số đau khổ. Nguyên nhân
của khổ nằm ngay trong
Tâm, đó là một khám phá sâu sắc, thế cho nên đức Phật đã hoan hỷ tuyên bố “ta
đã tìm ra kẻ làm nhà, từ nay nó không còn làm nhà được nữa”.
Với Phật nhãn, Ngài đã nhìn
thấy chúng sinh đều có Phật tính tức
khả năng giác ngộ như Ngài, nhưng lại trầm luân khổ não chỉ vì cái thấy sai lầm
điên đảo: vô thường lại cho là thường, vô ngã lại cho rằng ngã, bất tịnh lại
thấy tịnh. Chính vì lòng từ bi rộng lớn, Ngài từ bỏ sự an lạc của Niết Bàn, ra
đi hành đạo giáo hóa chúng sinh suốt 49 năm. Hạnh này của Đức Phật các kinh điển
gọi là Bồ đề tâm.
Như vậy Bồ đề tâm là thể
chất đại trí và đại bi, là tâm tự giác thánh trí, phát đại nguyện giáo hóa kẻ
khát đạt giác ngộ.
Vì vậy Bồ đề tâm là cách chuyển
hóa tối thượng nỗi khổ đau, vượt lên trên cái nhìn chấp ngã thông thường với ý
thức lìa phân biệt, thấy cái Nhất thể trong mọi sự, thấy mọi sự mâu thuẫn trong
đời như giàu sang - nghèo hèn, vinh nhục, khổ vui, thiện ác đều không thực, và
mọi đối đãi khác như ta bà, tịnh độ.v.v... đều do
Tâm
tạo tác, Tâm tưởng tượng, nó không
thực chất nên gọi là “tính không”.
Trong Trung quán luận, Đại sư Long Thọ đã đặt sự hiện hữu không tỉnh thức tức trong vòng luân hồi sinh tử và sự hiện hữu tỉnh
thức giác ngộ tức Niết Bàn ngang bằng với nhau và thể dạng này hay thể dạng kia
đều hoàn toàn rổng không về hiện thực (tức tính không) ngự trị trong cùng một
tâm thức.
Thế cho nên hành giả thấy được
khổ, thấy được nguyên nhân khổ để đi đến diệt khổ bằng cách loại trừ nhân, đạt
được giải thoát tức Niết Bàn. Giải quyết vấn đề sinh tử cho riêng mình thì chưa
xong vì Niết Bàn ở thể dạng này còn hạn hẹp, còn biên giới ngăn cách sinh tử mà
cần phải đi xa hơn, cần phải thấy sinh tử và Niết Bàn không phải là hai, phiền
não vốn là bồ đề.
Theo các luận sư Phật học, ở
cấp độ này hành giả còn đang ở trong Hữu dư Niết Bàn - Hữu dư ở đây không phải
là thân ngũ uẩn mà là những cái khổ đau còn rơi rớt do tàn dư nghiệp báo. Niết
Bàn của Phật là Niết Bàn tuyệt đối hay Niết Bàn vô trụ xứ không còn biến giới
ngăn cách sinh tử dù ở ngay trong dòng sinh diệt, mà các Ngài luôn luôn tịch
diệt. Vì vậy trong các kinh Đại Thừa có mô tả một hình ảnh Bồ Tát cỡi trên sóng
sinh tử mà đi, nghĩa là tuy có sinh có tử mà Bồ tát không chìm đắm trong sinh
tử, tuy còn thân thể, đang cỡi trên pháp thuyền nhưng không thấy đau khổ, vẫn ân
trú trong Niết Bàn tuyệt đối.
*
* *
Ta thường bắt gặp những chiều
hè oai bức, các tia nắng chiếu xiên qua màn sương sau cơn mưa tạo thành hình cầu
vồng ngũ sắc, trông sặc sỡ và đẹp vô cùng, nhưng nó cũng nhanh biến mất, thật
tiếc nuối. Những hiện tượng phù du như mây, gió, vẫn diễn biến trong bầu trời
chân thường, nếu không có vô minh, ngã chấp thì thấy vô thường là thường:
"Chim vẫn bay quanh từ vạn kỷ
Gió thật xưa, mây thật già nua"
Muốn thoát khổ phải mở rộng cái
nhìn để thấy với trí tuệ vô ngã, thấy cuộc đời là phù du, là mộng ảo, để thấy
rằng sống chết cũng chỉ là mộng ảo trong cái vô thường như bọt sóng giữa bể khơi
nổi lên rồi tan tác vào biển cả
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh
Có câu rằng: Vạn cảnh giai không"
Thấy như thế
là thấy Pháp thân của Phật thì sẽ không còn đau khổ nữa. Thấy vạn vật như huyển,
chúng hiện hữu, nhưng không hiện hữu như cách ta suy nghĩ. Trong đời sống ta cứ
tưởng là nắm được thực tại, kỳ thực đó chỉ là ảo giác về thực tại, vì theo lý vô ngã và duyên sinh mà vạn pháp hiện hữu, nên chúng chỉ là các hình
tướng khái niệm không thật. Có lìa hình tướng thì mối thực chứng được vô ngã, có
vô ngã thì mới an được tâm. Cho nên Đức Phật đã dạy “tất cả những gì mang hình tướng khái niệm đều là giả trá hư ngụy, chỉ
khi nào vượt thoát được danh tướng khái niệm ta mới thấy được Pháp thân của Phật”.
Lìa tướng, bỏ ngã
luôn luôn là cuộc nội chiến rất căm go thường trực đối với mỗi người tu học, có
lẽ đúng như Stcherbatsky, một triết gia, một nhà nghiên cứu Phật học lỗi lạc Tây
phương khi đang ngồi viết Buddhist Logic phát biểu: “nói
cái ghế tôi đang ngồi là không, thì thật là đầu óc điên rồ, nhưng tôi vẫn biết
nó là không”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A - tì - đạt - ma Câu xá: Tuệ sỹ dịch và chú, NXB Phương Đông, 2012
2. Kim Cang: Nhất Hạnh, NXB Lá Bối, 1992.
3. Trí Tuệ giải thoát: Vũ Thế Ngọc NXB Thời Đại, 2012.
4. Đập vỡ vỏ hồ đào: Thích Nhất Hạnh, NXB Tổng hợp TPHCM, 2011.