Tôn giả Mahā Kassapa sau thời gian đi vào định “lắng yên cảm giác, lắng yên
tưởng tư” (1), ngài cảm nghe thân thể nhẹ nhàng, sảng khoái như sau một giấc ngủ
ngon dài, không mộng mị. Nó đã nghỉ ngơi suốt cả 7 ngày rồi còn gì! Bước ra cửa
động, hít thở khí trời trong lành rồi tôn giả đi kinh hành qua lại, tới lui bên
triền núi có những khóm cây rừng nở hoa thơm dịu nhẹ…
Trong lúc ấy thì
tại cung trời Đao Lợi, một số ngọc nữ là cung nga của Đế Thích thiên chủ, họ vốn
có thiên nhãn, biết “sự kiện trọng đại, hy hữu” ấy nên bàn tính với nhau, là hãy
cùng nhau xuống đặt bát cúng dường cho tôn giả, để kiếm được quả phước thù
thắng. Tâm ý tương thông, cả mấy chục cô ngọc nữ, mỗi người chuẩn bị một nắm vật
thực cõi trời, màu sắc lấp lánh, thấm tẩm nhiều chất bổ dưỡng, thiên hương,
thiên vị; gói trong mảnh mây lụa, cài thêm những đóa hoa trời rồi như đám mây
ngũ sắc, họ xuất hiện tại hang động Pipphaliguhā, nơi này cũng không xa Trúc Lâm
tịnh xá bao nhiêu.
Tôn giả Mahā
Kassapa vừa ôm bát ra khỏi cửa động thì thấy sự xuất hiện đột ngột của cả một
đám thiếu nữ sắc nước, hương trời, dung mạo và xiêm áo đều khác phàm, biết ngay
họ là ai, nhưng ngài cũng điềm đạm, lịch sự hỏi:
- Quý cô là ai?
Đến đây có việc gì không?
- Thưa, xin ngài
hãy tế độ chúng con! Cho chúng con được đặt bát cúng dường!
- Xin cho biết
lý do của sự cúng dường này?
- Để cho chúng
con kiếm được một chút ít phước báu nương nhờ trong mai hậu.
- Vậy sao? Hãy
xem lại mình đi! Phước báu hiện tại của quý cô hơn cả trăm ngàn lần, hơn cả
triệu lần những người đang đói khổ ở xóm làng chiên-đà-la này, thế mà còn cất
công từ xa xôi đến đây đòi “bòn” thêm phước nữa ư?
- Vâng! Chúng
con luôn luôn thèm phước, luôn luôn thấy mình thiếu phước. Hãy cho chúng con đặt
bát, thưa tôn giả quý kính!
Tôn giả Mahā
Kassapa vẫn ôn tồn giải thích:
- Quý cô thử
coi! Gió thường tìm vào hang trống, nước chỗ cao thì phải chảy xuống chỗ thấp.
Đấy là định luật tự nhiên của đất trời. Khi mình đã có nhiều phước rồi, thì nên
để dành phước này cho những người nhà cửa rách nát, thiếu cơm, thiếu áo, này hỡi
chư ngọc nữ cung trời Ba Mươi Ba!
Biết là đã lộ
tẩy trước đôi mắt của bậc thắng trí thượng nhân, chẳng biết sao hơn, tiu nghỉu,
chư ngọc nữ tức khắc bay trở lại cung trời.
Đế Thích thiên
chủ thấy biết hết mọi chuyện, ông cười cười nói với họ:
- Đi đặt bát
cúng dường cho tôn giả Mahā Kassapa mà quý cô lại trang phục ăn vận cao sang như
đi lễ hội nhà trời. Tôn giả ấy chỉ tế độ cho người nghèo, kẻ quần túm áo ôm, kẻ
mà vá cơm có trấu lót bụng cũng thiếu thốn, nghe rõ không? Vậy thì mình phải
biết giả dạng khuôn mặt méo mó, nhăn nhiu, già khọm, nghèo khổ, run lẩy bẩy… ở
trong cái chòi trống hoác, lổ chổ nhìn thấy ngàn sao thắp rạng ban đêm kìa, biết
chưa? Ta sẽ giả dạng như vậy may ra mới “hớt” được cái phần phước thiên hạ vô
song này!
Nói xong, Thiên
Chủ kêu nàng thứ hậu cưng quý của mình, đấy là nàng Sujātā (2), cả hai tức khắc
hóa trang thành hai ông bà già xấu xí, đói khổ rồi mất tích!
Thấy tôn giả
Mahā Kassapa đang từ từ chậm rãi đi đến xóm nghèo của các gia đình cùng đinh, nô
lệ, Đế Thích bèn sử dụng thần thông nối thêm một con đường mòn ngoằn ngoèo, bò
sang một hướng khác. Ở tại đầu lối nhỏ này, Đế Thích cũng sử dụng thần thông tạo
một căn nhà xiêu lệch, tồi tàn mà ông là một ông lão già khọm trên trăm tuổi,
tóc bạc phơ, áo vá trăm mảnh, thân tợ bộ xương khô, teo tóp da và xương đang lấy
bẩy kéo chỉ. Còn bà cũng già nua như ông vậy, tóc bạc lưa thưa, răng rụng, móm
mém… cũng đang cặm cụi làm việc nơi khung dệt.
Dừng chân trước
cửa, nhìn vào bên trong, thấy rõ sinh hoạt của một gia đình già cả neo đơn, tôn
giả Mahā Kassapa tự nghĩ: “ Đúng là gia đình thợ dệt chăm chỉ! Cơ khổ! Chẳng có
ai mà lại nghèo khó đến như hai ông bà già lão này. Dẫu không có cơm, có bánh đi
nữa, dầu chỉ còn canh thừa, nước cháo chua hay cám rau… ta cũng hoan hỷ thọ
nhận, độ thực để cho họ thoát kiếp khốn khổ này!”
Đế Thích biết
chuyện ấy bèn dùng thiên âm rót vào tai nàng Sujātā: “Ngài đang đứng trước cửa.
Nàng cứ giả vờ không thấy, không biết, không nghe gì hết. Và ta cũng vậy. Cứ
chăm chỉ, cần mẫn công việc của mình”.
Tôn giả đứng hồi
lâu, thấy hai ông bà vẫn không hay biết, bèn cất tiếng “tằng hắng”. Vẫn không ai
nghe. “Có lẽ họ điếc”, tôn giả tự nghĩ rồi “tằng hắng” lần thứ hai, lần thứ ba,
lớn hơn.
Đế Thích bây giờ
mới nói vừa đủ nghe:
- Bà nó ạ! Hình
như có ai đang đứng trước cửa, bà nó xem thử là có chuyện gì vậy?
- Tui mắt mờ hơn
ông, ông hãy nhìn xem thế nào?
Đế Thích bỏ
khung cửi, bước ra, che mắt, hom hem nhìn. Như thử đã thấy biết rồi, ông già quỳ
mọp xuống, lạy sát đất rồi than thở:
- Thần thánh ôi!
Nghiệt dữ ha! Không mấy thuở có vị sa-môn của đức Phật Cù Đàm ghé nhà, cái tệ xá
rách nát này đúng là được hưởng phước trời rồi! Nhưng bà nó ơi! Nhờ coi xem mình
có thứ vật thực nào thượng hảo hạng, quý giá nhất không vậy bà?
Sujāta cũng phụ
họa theo, đóng cho trọn vẹn màn kịch hay, lẩm ca lẩm cẩm nói:
- Ông nó nói cái
gì vậy cà? Cái gì mà thượng hạng, cái gì là đệ nhất vậy cà? À… nhà ta có đấy!
Hôm qua, tôi đã âm thầm bỏ tiền mua một món ăn đặc biệt, định bất ngờ tặng ông
để kỷ niệm “một trăm lẻ mười mùa xuân” của ông đó!
- Tốt quá! Tốt
quá! Vậy bà hãy làm ngay cái món đặc biệt ấy đi! Chúng ta cúng dường cái món
“một trăm lẻ mười mùa xuân” thì chúng ta sẽ được hưởng hằng ngàn, hằng ngàn cái
mùa xuân kia lận!
Tuân lời, bà lão
bước vào trong một lát, bước ra, trên tay đã có một món ăn đặt trong cái bát
lớn, sứt mẻ nhưng hương thơm lại tỏa ra ngào ngạt, như thơm lan cả kinh thành
Rājagaha…
Tôn giả Mahā
Kassapa sau khi thọ nhận vật thực tự tay hai ông bà run rẩy thay nhau sớt vào
bát, tự nghĩ: “Gia đình thợ dệt nầy quả thật là rất nghèo khổ, nhưng bát vật
thực, tại sao hương thơm lại tỏa ngát lên cả bốn cõi trời thiên vương như thế?
Ai đây hả?”
Hướng tâm, và
khi biết đấy chính là Đế Thích cùng với thứ hậu, tôn giả Mahā Kassapa la rầy:
- Thiệt là hết
nói! Hiện hình ra đi thôi, Đế Thích thiên chủ và thứ hậu thiên nương! Tại sao
hai vị lại chơi có trò này, lại đang tâm “hớt” mất phần phước của người nghèo
khổ vậy?
Biết không còn
giấu giếm bậc đại thánh tăng được nữa, họ trở lại nguyên dạng. Đế Thích trong
thân tướng mũ miện chói ngời, quỳ mọp bên chân:
- Xin tôn giả xá
tội cho. Bởi đệ tử nghèo quá nên muốn “bòn” một chút phước thôi mà!
- Thiên chủ mà
lại nghèo ư? Lại than nghèo hả? Một bậc thiên chủ cao sang, oai lực trùm trời
đất, cai quản cả 4 châu thiên hạ (3), cai quản cả 33 tầng trời mà lại than
nghèo, than khổ? Tội nghiệp không!
- Quả thật như
vậy mà, đệ tử nghèo phước lắm! Đệ tử nói thật đó!
- Vậy thì thử
nói ta nghe?
- Tôn giả cứ thử
hướng tâm một chút là biết ngay mà. Sở dĩ đệ tử làm vua cõi trời Ba Mươi Ba là
nhờ công đức mà đệ tử đã làm trong thời kỳ không có đức Chánh Đẳng Giác ra đời.
Người thanh niên thuở ấy tên là Magha, tại ngôi làng Macala, cũng tại thành phố
Rājagaha nầy… (4)
- Ừ, ta thấy
rồi, biết rồi… và còn sao nữa?
- Kể từ độ ấy
đến giờ, đệ tử cũng chỉ thọ hưởng phần phước xưa cũ đó thôi.
- Đúng vậy!
Thiên chủ chưa làm thêm được một phước mới nào! Hãy nói tiếp đi!
- Thưa, trong
kiếp hiện tại nầy, khi thấy tuổi thọ của mình sắp mãn, đệ tử đã qua trung gian
ông nhạc sĩ trưởng của thiên đình, nên đã đến thăm viếng đức Thế Tôn trên núi
Vediyaka, làng Ambasaṇḍā… (5)
- Ừ, ta cũng
thấy rồi, biết rồi. Nhưng lần ấy do phước trí nghe pháp, thiên chủ đạt được tâm
bất thối với con đường, đồng thời hóa sanh trở lại thân Sakka trong nháy mắt…
- Đúng vậy!
Nhưng đệ tử cũng chỉ hưởng lại phần phước cũ, phước mới cũng chưa có một chút
gì!
- Ừ, ta đã hiểu.
Ngẫm nghĩ một
lát, Đế Thích thưa:
- Tôn giả hãy
cho biết: Làm phước, làm công đức trong thời kỳ có đức Chánh Đẳng Giác và làm
phước, làm công đức trong thời kỳ không có đức Chánh Đẳng Giác thì cái nào thù
thắng hơn, cái nào quả phước vượt trội hơn?
- Dĩ nhiên là
thời kỳ có Phật!
- Vậy thì thưa
tôn giả! Phước của đệ tử từ xưa đến nay, được làm, được tạo từ thuở không có
Phật nên phước báu của đệ tử làm sao so sánh được với phước báu hiện nay của cận
sự hai hàng trong giáo hội của đức Đạo Sư!
Tôn giả Mahā
Kassapa gật đầu:
- Thiên chủ nói
đúng!
- Vậy thì đệ tử
nói đệ tử “nghèo phước” có đúng chăng?
- Đúng, nếu so
sánh với những cận sự nam nữ hiện nay.
Rồi thiên chủ
như tâm sự:
- Tôn giả biết
không? Hiện nay trên cõi trời của đệ tử, có vị thiên vương tên là Cūḷaratha, vị thiên vương tên là Mahāratha,
vị thiên vương tên là Anekavaṇṇa; họ chỉ là những thiện nam bình
thường, nhưng nhờ bố thí, cúng dường đến đức Thế Tôn và tăng chúng nên mạng
chung, hóa sanh lên cõi trời 33, tức khắc, họ “giàu phước” hơn đệ tử nhiều.
- Nói cụ thể hơn
một chút, thiên chủ!
- Thưa! Quyền
lực cai trị, cai quản thì họ cũng chỉ là thần dân của đệ tử nhưng hào quang, sắc
tướng thì họ thắng xa đệ tử. Đứng bên cạnh ba vị ấy thì quang sắc của đệ tử trở
nên lu mờ và đen tối. Có lần, khi đến gần các vị ấy, đệ tử thấy thân sắc của
mình trở nên u ám thảm hại; xấu hổ quá, đệ tử và cả đoàn cung nga đành phải chạy
trốn vào biệt điện! Ôi! Thật là tệ hại! Ánh sáng từ nơi tướng hảo quang sắc của
họ chiếu đến đệ tử thì như bao trùm cả đệ tử, dõng mãnh uy hiếp đệ tử; còn ánh
sánh của đệ tử thì như sợ hãi, thập thò, thập thò… không dám bò tới, lết tới
đụng đến cái chéo thiên bào của họ! Quả thật là khốn khổ, quả thật là nghèo đói
phước đức quá trời trời, thưa tôn giả!
“ Đúng sự thật
là vậy!” Tôn giả Mahā Kassapa nghĩ! “Tuy do mưu, do mẹo nhưng dù sao, nhân và
duyên đã xảy ra rồi, quả và báo không thay đổi được”. Ngài bèn nhắc nhở:
- Thôi! Ta thông
cảm! Nhưng một lần duy nhất này thôi đó nghe! Đừng có chơi cái trò chơi thiếu
chơn, thiếu chánh như vậy nữa, thưa thiên chủ!
Như được đại xá,
thiên chủ quỳ sụp, lạy lia lịa:
- Tri ân tôn
giả! Tri ân tôn giả đã thông hiểu nỗi lòng!
- Được rồi!
- Nhưng đệ tử
“dùng mẹo” để đặt bát cúng dường như thế thì phần phước sau này sẽ như thế nào,
thưa tôn giả?
- Vẫn trả quả
như thường, tuy nhiên, nó sẽ không được trọn vẹn đâu!
- Tại sao?
- Vì do thiên
chủ có cái tâm hơi xiêng lệch đó!
- Đệ tử hiểu!
- Phải tinh cần
tu tập thêm một chút, chớ quá phóng dật! Phải hộ trì giáo pháp nhiệt tâm thêm
một chút nữa! Ta phúc chúc cho thiên chủ được tròn ước nguyện. Thôi, hãy đi đi!
- Xin ghi nhận
lời dạy dỗ và tri ân tôn giả một lượt nữa!
Thế rồi, Đế
Thích thiên chủ nắm tay thứ hậu Sujātā, cùng bay bổng lên không trung, tan
hòa giữa mây trời, hỷ lạc dâng đầy khắp cả người, cao hứng thốt lên ba lần, âm
ba vang động cả sơn hà, đại địa:
“- Ôi! Ta đã
cúng dường vi diệu, thù thắng và ta sẽ được quả phước vi diệu, thù thắng!”
Đức Phật theo
dõi diễn tiến câu chuyện từ đầu, đến khi thấy Đế Thích cảm hứng ngữ thốt lên
sung sướng như vậy, ngài kể lại cho đại chúng tỳ-khưu nghe, sau đó thuyết giáo
thêm rằng:
- Với phước báu
cao sang như vậy rồi mà cái ông thiên chủ Đế Thích kia còn muốn đi “bòn” phước
nữa! Cho hay, bất cứ chúng sanh nào cũng phải nương tựa phước, nhờ phước sanh,
nhờ phước thành. Cho chí Như Lai cũng vậy, trong suốt 4 a-tăng-kỳ, trăm ngàn đại
kiếp, Như Lai gần như toàn mãn ba-la-mật, mà những kiếp cuối cùng, như tích
truyện thái tử Vessantara (6), vẫn còn tích lũy thêm năng lực của năm đại thí.
Vậy, câu chuyện này các vị phải thuyết lại nơi này, nơi khác cho hai hàng cận sự
nam nữ được nghe, để họ noi theo, để họ làm gương…
Trích từ: Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt 6, Minh Đức
Triều Tâm Ảnh
______________________________________________________
Chú thích:
1. Là định diêt
thọ, tưởng.
2. Con hạc mái ở
rừng sâu, cô công chúa con A-tu-la vương trong tích truyện “ Cõi trời Ba Mươi
Ba” – xem lại quyển 4.
3. Tứ Đại thiên
vương là 4 vị thiên tướng của Đế Thích.
4. Tôi dựa theo
chú giải kinh Pháp cú. Có vài nơi lại bảo Magha này chính là tiền thân của đức
Phật.
5. Xem lại
“ Chuyện tình của chàng nhạc sĩ Can-thát-bà” quyển 3.
6. Chuyện thái
tử bố thí vợ, con.