Thi sĩ Quách Tấn
Thơ có 2 loại:
Hữu đề thi
và Vô đề thi.
Hữu đề thi là thơ có đề trước có thơ sau. Tình ý trong bài thơ phải đi sát với đề.
Vô đề thi là thơ không đề, nghĩa là có thơ trước có đề sau Đề ấy hoặc là theo đại ý trong
bài
mà đặt ra,
hoặc lấy vài ba chữ trong
bài
hay trong một câu trong
bài
mà đặt ra. Có nhiều khi không đề gì
hết hoặc để 2 chữ Vô Đề cho có chừng.
Những bài thơ xưa còn truyền lại, phần nhiều đều không
có đề. Người sau chép lại, mới đặt cho một cái tên theo ý mình.
Do đó mà có nhiều bài mang phải thi đề không
mấy thích
đáng. Có những
bài
ở sách
này
thì mang thi đề này
ở
sách khác
thì mang
thi đề khác. Xin lấy bài danh
tác
của
bà Huyện Thanh
Quan
sau đây làm tỷ dụ:
5 Có người hỏi: Như vậy thì
bóng
hoàng hôn đối với tranh thủy mạc
trong
thơ Hoàng
Cảnh Tuân thì sao? Thưa
rằng: Rất chỉnh. Bởi bóng
hoàng
hôn
là một và
tranh thủy mạc cũng
là một. Không có
trọng
khinh.
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống đồn Gác mái ngư ông về viễn phố Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi Dặm liễu sương sa khách
bước dồn Kẻ chốn chương đài người lữ thứ Lấy ai mà giải nỗi hàn ôn.
Học giả Nguyễn Văn Ngọc đặt là Cảnh Chiều Hôm, giáo sư Dương
Quảng
Hàm
lại gọi là Trời Hôm
Nhớ Nhà. Cả 2 tên đều chưa ổn bởi không
nêu
đủ
2 ý quan trọng nhất là
“giữa đường xa” và
“ngày gần hết" của bài
thơ. Cho nên ông Hư Chu, tác giả tập Để Hiểu Thơ Đường Luật,
đề nghị nên lấy tên
là Đường Chiều.
Tên Đường Chiều thật thích đáng.
Còn đầu đề Trời Hôm Nhớ Nhà thì để cho bài sau đây, cũng
của bà Thanh Quan:
Vàng tỏa non tây bóng ác tà
Đằm đằm ngọn cỏ tuyết phun hoa
Ngàn mai lác đác chim về tổ
Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà Còi
mục thét trăng miền khoáng đã Chài ngư tung gió bãi bình
sa
Lòng quê một bước dường ngao ngán
Ai kẻ tình
chung có thấu là.
Gọi bài này là “Trời hôm nhớ nhà” là coi mặt đặt tên, tức là có thơ rồi mới có đề. Chớ nếu đề có trước thơ có
sau
thì bài
nầy bị đánh hỏng. Bởi theo thể lệ lưu hành trong làng thơ Đường luật thì cặp trạng không
được dùng chữ của đầu đề, dù chỉ một chữ. Không theo đúng là bị lỗi “Phạm Đề”. Trong bài này câu thứ tư phạm đến 2 chữ Nhớ Nhà.
Và câu đó chỉ lập lại đầu đề chớ không trạng, tức không thích
thực đầu đề, không
hình dung cho độc giả thấy rõ
những ý gói ghém
trong
đầu đề, tức ý “nhớ nhà”.
Thơ hữu đề bó buộc hơn thơ vô đề. Cho nên
cổ nhân thích làm thơ vô
đề.
Viên Mai, tác giả Tùy Viên Thi Thoại nói: “Thơ vô đề là thiên lại, tức bộng
trời,
thơ hữu đề là
nhân lại,
tức bộng người” Tôi nhận thấy: Thơ vô đề dễ làm mà khó hay, thơ hữu đề khó làm
mà dễ hay. Một bên dễ là nhờ ít bó
buộc mà
khó là bị nguồn hứng lôi cuốn đi ra ngoài
đường hướng nhắm định lúc ban đầu. Một bên khó là vì phải giải
thích cho rõ và đầy đủ ý nghĩa của đầu đề, giải thích mà không sát là
lạc đề, thiếu ý sót
nghĩa là lậu đề, lại phải
tránh
cho
khỏi phạm đề. Tức là khó vì bó buộc. Nhưng lại dễ vì nhờ khuôn phép đã có sẵn,
chủ đích đã đặt sẵn, người làm
thơ
chỉ có việc theo cho đúng
là thành
công.
Mới học thì nên tập làm thơ có đề. Khi thuần thục rồi thì sẽ làm thơ vô đề. Bởi nhỏ có từng khắc kỷ, thì lớn mới
tránh
khỏi tánh buông lung. Và nghệ thuật sanh nhờ cưỡng bách, chết vì
tự do (L’art nait de contrainte et mort de liberté).