Minh Đức
Triều Tâm Ảnh
Ngưỡng bạch giác linh ngài,
Hỡi
ôi!
Vầng nguyệt đã lặn mây!
Hoa đàm vừa rụng suối!
Khoảng lặng tâm hồn chợt mịt mù tăm tối
Một
đóa hương hiu hắt rụng đài khô
Có
phải chăng cơn gió hư vô?
Thần tán
Thân tan
Sao mờ
Trăng lạnh
Nước về đông, biệt nguồn cô quạnh!
Lá bỏ cành, lìa cội nhớ thương!
Ôi!
Đã thức tri, sinh tử thị thường!
Đành kham nhẫn, khứ lai như mộng!
Cay xót mắt, ân trùm biển rộng
Đớn đau lòng, đức phủ non cao
Ôi!
Tâm sa-môn rạng chiếu muôn sao
Trí bát-nhã ngời soi vạn lối
Thanh thản đến, mây sương để dấu!
Rỗng rang về, cát bụi xoa tay!
Giáo
hóa xuân thu, đất Phật trời Tây
Cơm
bánh ngàn nhà,
Biết
mấy khó khăn, lúc duyên tàn, pháp mạt
Có
thực tại hiện tiền
Chẳng phân chia bỉ, thử
Đạo
và đời, trái hoa giác ngộ chia chung
Ví
như đám mây trắng thung dung
Vì giác liễu mệnh, thời mà xả thân tứ đại?
Bỏ ngoài tai, đếm đo khôn, dại
Quẳng giữa triền, toan tính cạn, sâu
Ôi!
Hàng
hàng giáo phẩm
Trưởng lão, Tăng Ni
Tứ
chúng, môn sinh
Tùng trúc cúi đầu
Suối sông rỉ lệ
Tin
truyền báo năm châu, bốn bể
Tu
viện già-lam hoa trắng kết khăn sô
Bậc
long tượng đời nay như sao lạnh đêm nhờ
Dần
rơi rụng, thế gian buồn thêm nữa
Hạnh ngoài cõi, mấy người nhen lửa
Thuyền giữa dòng, ai kẻ tiếp duyên
Dông bão hung hăng, thiết thạch không sờn
Mưa gió phủ phàng, Tăng bào chẳng động
Chèo mật độ, trời mây lồng lộng
Gậy bồ-đề, phố chợ thong dong
Thế
mà hôm nay,
Địa
chấn bàng hoàng
Bửu
quyến, môn sinh nghẹn ngào, bối rối
Chẳng lẽ chân dung một đời hương bối
Để
từ nay đại chúng bơ vơ?
Hỡi
ôi!
Hạnh
sa-môn
Đâu bến, đâu bờ?
Hỏi
chi chuyện cạnh tranh thua được
Sinh tử cuốn, mù mù ác trược!
Thế thời xao, mịt mịt lương tri!
Đuốc tuệ minh, chông vực bước đi
Đèn từ ái, hố gai dò lối
Nhớ
giác linh xưa,
Thế
danh Ngô Bửu Đạt
Quán
quê Sa Đéc
Di
trú Nam Vang
Từ tuổi thơ, duyên gặp đạo vàng
Bởi căn trí, phúc đưa kinh ngọc
Mới
5 tuổi, đến chùa tu học
Giữ
nếp nề, phép tắc, giới nghi
Tập
ăn nói, học đứng đi
12
tuổi, thọ sa-di giới pháp
Khất
thực xóm làng, tháng ngày ôm bát
Và
sớm hôm, kinh chữ chăm chuyên
Học
một biết hai, tấn hóa đạo thiền
Đường lớn rộng, duyên đời thắp nến
Mềm mỏng nói năng, thầy cảm mến
Hiền hòa lui tới, bạn yêu thương
Lửa
trong ghè cháy đỏ dị thường
Do
nhiều kiếp huân tu mật độ
Lưỡi
gươm bén rèn tâm gian khổ
Khối
đá thô mài ngọc cầm tay
Chí
cao vời, hồng hạc vút bay
Không hổ thẹn chức năng sĩ tử
Sách và bút miệt mài kinh sử
Bát với y rong ruổi đó đây
Rồi
pháp học, bảng vàng, lần lượt bắt thang mây...
Hôm
kia,
Tuổi
đủ 20, thầy cho thọ đại giới
Từ
đó,
Biển lớn rộng, kình ngư
thỏa chí
Trời xa cao, linh điểu bền hơi
Ưu
hạng Cao đẳng Phạn, Pāḷi khó nuốt, khó trôi
Tiếng Miên, Thái bắt đầu vững chãi
Miến
với Anh ngày thêm sành sõi
Vài
năm sau tất thảy khá thông
Du
học Tích Lan bền sức ra công
Thêm
ngữ pháp Pāḷi văn, nghiên tầm ba tạng
26
tuổi, tâm thông, trí rạng
Đãy
ta-bà tạm đủ tư lương
Được
Trưởng lão Narāda ưu ái, mến thương
Theo
thông dịch những kỳ thuyết pháp
Dù
tiếng Anh, dù Pāḷi, đã chuyển ngôn lưu loát
Giáo
hội Tăng-già góp sức dựng xây
Tại
trụ sở Kỳ Viên, rồng hổ cuộn mây
Mở
trang sử cho Theravāda đất Việt
Tại
Rangoon, Tam Tạng thánh kinh kết tập
Ngài
là học giả Tăng
Được
thỉnh cử vào ban vấn, đáp Phật ngôn
Là
một vinh dự tối cao, khó gặp, khó bàn
Cùng
đứng thẳng ngang hàng với Tăng-già thế giới
Phật
giáo từ đây, tân kỷ nguyên, tân vận hội!
Di
giáo kế thừa, kinh chữ cận nguồn hơn
Ngài
cũng là vị Tổng thư ký đầu tiên
Của
Giáo hội Tăng-già Nguyên Thuỷ
Tuổi
trẻ, tài cao – trí tâm bén rễ
Mẫn
cán thừa hành trăm việc làu thông
Thế
là chiếc thuyền nan lội thác, vượt dòng
Cùng
chư vị tôn túc
Phá
thạch khai sơn ươm trồng tùng bách
Năm
1958, học viện Pháp Quang kiến lập
Ngài
chuyên tâm đào tạo Tăng tài
Biến
cố 1963, tham gia phản kháng Ngô triều
Liên
phái uỷ ban - đấu tranh bất khuất
Giáo
hội thống nhất, ngài là một yếu nhân tích cực
Chẳng Bắc, Nam, phân biệt hệ tông
Con
Phật Thích Ca - chỉ một giống dòng
Chỉ
cốt bồ-đề vươn chồi, nảy nhánh,
Vầng
trán sử kinh, tuệ minh lấp lánh
Ăn
nói có tài, lại sẵn bụng kinh văn
Ngài
là một tia cực quang bên cạnh những vầng dương
Xua
tan những trở ngăn tối ám
Thắp
bình minh cho căn nhà Nguyên Thủy Việt Nam
Còn
là trợ duyên cho đại Trưởng lão Minh Châu
Vào
buổi đầu,
chuyển dịch những Nikāya, Pāḷi tạng.
Ôi!
Ai liễu thông mưa nắng tiết, thời?
Ai giác tri bão dông nghiệp, mệnh?
Người xưa nói,
Tận
nhân lực, tri thiên mạng!
Trong cộng nghiệp có vô vàn biệt nghiệp
Phải
biến quyền, lựa cảnh, tìm cơ
Duyên trời Tây, trăm việc sẵn chờ
Bỏ
lời tiếng thị phi
Bỏ
đàm tiếu khen chê
Lên
đường, cưu mang sứ mệnh
Năm
1982, đến Hoa Kỳ trú cư
Do
tứ chúng yêu cầu, thỉnh nguyện
Ngài
đảm nhận vai trò đầu sóng chèo khơi
Bao
khó khăn, nghịch cảnh ngút trời
Vẫn
tự tại, an nhiên, nụ cười như thị
Trong thăng trầm, được mất
Giữa
sinh diệt, biến thiên
Chẳng nề hà thời thế đảo điên
Lái
thuyền lớn trạm nhiên, vô úy
Giáo
hội thuở xưa, vẫn một lòng chung
thuỷ
Ngồi
ghế cao trụ trượng, hoằng dương
Uy
đức của ngài, ma quỷ kính nhường
Những trận bát phong
Hóa
thành sen vàng cúng Phật
Thời thế ngẫm, làn trăng dọi nước
Nhân tâm suy, bóng trúc vờn sân
Xao xác bay muôn mảnh bụi trần
Phất phơ rụng vạn màu hoa đốm
Chim không cánh hạo nhiên tung
lượn
Cá chẳng vây hào sảng vẫy vùng
Ôi!
Suốt
một đời xem nhẹ tai
ương
Đạo
pháp trọng, tợ đầu lông vũ trụ
Như
rồng ẩn giữa loạn cuồng tinh tú
Như
đuốc đêm soi tỏ mặt người
Ngót
trăm năm tư cách cao vời
Hạnh
muôn việc chẳng bàn vô, hữu
Con
chữ, câu văn bình dân dễ hiểu
Giảng pháp, dạy thiền như uống nước, ăn cơm
Nụ
cười trong tâm dịu nhẹ lan
thơm
Mà
đạo nghiệp bền sâu thiết thạch
Dẫu
cuồng vọng đốt kinh, đốt sách
Tìm tàn tro xá-lợi ở nơi đâu?
Lửa
tắt rồi, giá lạnh cả tinh cầu
Buông ngọn bút, muốn xóa ngay hàng chữ
Thiền công án, chỉ một bàn tay cũng vỗ
Bịt
miệng nói năng, lời chân đế không hoa
Huyễn mộng còn cả gan trêu cợt sa-bà
Bập
bùng cháy thức tri cát bụi
Tâm trung đại đạo, nào thưng đấu?
Thế ngoại cao nhân, há xét lường?
Biết
bao người khôn xiết vấn vương
Hoa
cỏ núi, rừng ngàn sương ướt
Xót
xa lắm, cỗi tùng già bật gốc
Tàn tán che đất Phật biết tìm ai?
Cầu
nguyện giác linh, ba-la-mật kết đài
Trăm
trượng buông tay, duyên tùy vô ngại
Hàng
hàng hậu học sa-môn
bi thương khấp bái!
Làm tại Huế, Việt Nam, 12/10/2012
Chùa Huyền Không Sơn Thượng
Tỳ-khưu Giới Đức
(Minh Đức Triều Tâm Ảnh)