Thơ toàn bích
tho toan bich
Thi sĩ Quách Tấn
Thơ được liệt vào Ưu
đẳng Thượng hạng phải là những
bài thơ hình
thức
cũng như nội
dung, không ai bắt
bẻ được, tức là toàn hảo như thơ
Khóc Chồng của Hồ Xuân Hương, thơ
Đề Nghĩa
Lư của Phạm Thái, v.v… đã
dẫn
ở
bài số
1.
Những bài thơ
ấy, cũng
như
ngọc không có chút tỳ vết
nên gọi là toàn
bích.
Thơ toàn
bích rất
hiếm. Những đại gia văn chương như
Phạm
Thái, bà
Huyện
Thanh Quan,
Hồ Xuân Hương,
Nguyễn
Khuyến,
Phan Sào Nam,
mỗi
người
có được chừng năm ba bài là nhiều.
Tương An Quận vương triều
Minh Mạng, Tự Đức,
cũng là một
đại gia văn chương, có nhiều
danh tác, có
nhiều câu
tuyệt diệu. Song xem kỹ
thì bài nào cũng có tỳ vết, hoặc nhiều
hoặc ít, chớ
rất ít bài hoàn toàn đẹp cả ngoài lẫn
trong. Ví dụ
bài Thu Cảm:
Bên cảnh bên tình khéo vấn
vương Sầu thu đưa hạ
chạnh trăm đường Tiếng
ve dài dặc nghe thêm
thảm
Mặt nguyệt tròn
hin
ngó dễ
thương Vàng thếp giếng
ngô sa lá
gió
Bạc xuy giạu cúc nảy
chồi sương
Dầu chong trắng dĩa chưa yên
giấc Lăm phá thành sầu đã
hết
phương.
Cặp luận thật siêu trác. Còn
những câu 1,
2, 3, 7,
8 đều là
giai cú. Riêng tiếc
câu 4 “Mặt
nguyệt
tròn hin ngó dễ thương” thật
là một
mãnh vải điều chắp vào tấm áo gấm.
Vẫn
biết rằng bài Thu Cảm này, tác giả mượn cảnh
để tả tình, tả nỗi lòng trước cái chết của Hồng Bảo
và câu “Mặt nguyệt… dễ
thương” là ám chỉ vị hoàng tử bị
Tự Đức làm tội
phản nghịch. Song
đọc
mấy câu trên rồi đọc đến câu
“Mặt
nguyệt…” chúng ta có cảm
tưởng
như nghe một thiếu phụ
đang khóc chồng, chợt
ngước lên
nhìn quanh và
nói “bộ
mặt ngó
dễ thương quá” đoạn
lại cúi xuống khóc
thảm
thiết.
Bài nầy là một viên ngọc quá
đẹp
mà có một
vết quá rõ
không cần đến cặp mắt
của người rành ngọc cũng trông thấy dễ
dàng.
Hai bài sau
đây của
Vương cũng là 2
viên ngọc
có vết:
THIÊN MỤ
HOÀI CỔ
Thiên Mụ rày xem cỏ lướt mây
Xe loan qua lại
dấu còn
đây
Ngọc hoàng
điện trước ngằn rêu lấp
Di
Lặc chùa sau tiếng
dế vây Thảm lấp Phủ Câu sông một giải
Sầu giăng Long Thọ
núi liền dây Cảnh trời trông thấy
thêm buồn bã Còn thiếu
quyên kêu xó gốc
cây.
QUAN CÔNG CƯ TÀO
Tôi chúa
đôi phương cảnh quạnh hiu
Cũng vì một chút nghĩa liu điu
Ơn Tào dẫu
chất nghìn cân nặng Nợ Hán còn mang một
gánh trìu
Đuốc ngọc canh khuya trời một
góc
Vườn đào
thề cũ ruột trăm chiều
Ví
ai muốn thấu nguồn cơn
ấy
Xin hỏi
chàng Trương
nỗi khúc khiu.
Vết
trong
2 viên ngọc này có
phần nhỏ,
nếu không “thổi lông” thì không
nhìn thấy rõ. Đó
là “xó
gốc cây” trong bài
Thiên Mụ
và “nghĩa liu
điu” trong bài Quan công. Mấy chữ
đó chỉ
vì thi cước thi vận mà đem vào cho đủ số đủ vần đó
thôi! Xét
kỹ,
câu “còn thiếu, quyên kêu xó gốc cây” tuy lời
kém song
ý hay. Tác giả
rút trụm tình cảnh ở các câu trên để kết luận rằng “cảnh vong quốc đã
hiển hiện ra trước mắt
rồi chỉ
còn thiếu
lời công bố
nữa mà thôi”.
Bài Thu Cảm
ngụ ý nói về
việc Tự
Đức
giết Hồng Bảo.
Còn bài
này phải chăng cũng ngụ ý nói về nghi vấn “Tự Đức không phải
huyết
thống
nhà Nguyễn” và bảo thầm
rằng “Nhà Nguyễn đã
mất hẳn ngôi rồi, chỉ
còn thiếu
lời xác
nhận.” Câu này nói về
tình hình nước
Việt Nam thời Tự Đức cũng hay mà nói riêng về triều
nhà Nguyễn cũng
hay.
Nếu nói riêng về vua Tự Đức là dòng
dõi khác thì câu “còn thiếu quyên kêu” có liên
quan đến câu “ví ai muốn biết
nguồn cơn ấy. Xin hỏi
chàng Trương nỗi
khúc khiu”
trong bài Quan Công Cư Tào.
Chàng Trương trong câu đó không phải là Trương Phi
như nhiều người
lầm tưởng mà là Trương Liêu. Bởi lúc Quan công qui thuận Tào
Tháo, Trương Phi không có mặt
và chính Trương Liêu là đầu mối của
việc hàng Tào. Tương An mượn
họ Trương Tàu để nói họ Trương Ta: Trương Đăng
Quế, vì nghe truyền rằng chính Trương
Đăng
Quế
chủ mưu việc
thay đổi hoàng tử.
Cũng như bài Thiên Mụ,
bài Quan công có một
“nội chi
vị” và “ngoại
huyền chi thanh”. Riêng tiếc câu thứ
2 “cũng
vì một chút
nghĩa liu điu” không ổn. Không ổn
chẳng những vì mấy chữ
“nghĩa
liu điu” làm mất vẻ
trang trọng
của bài thơ
mà còn
vì ý thừa thượng song không tiếp
hạ. Ý câu 2 và
2 câu 3,
4 thật chẳng liên quan chi đến nhau cả. Mới xem
qua thì thấy cái vết
trong câu này “có phần nhỏ” song xét lại thì lớn
bằng cái vết trong câu “Mặt nguyệt
tròn
hin ngó
dễ thương” trong bài Thu Cảm.
Mặc dù có vết, ba bài thơ
Thu Cảm, Thiên Mụ
Hoài Cổ, Quan Công Cư Tào đều thuộc về hạng ưu tú, nhưng
ở cấp
2 hoặc
3.
*
Thơ bà Huyện
Thanh Quan có lắm
bài cũng không toàn bích. Như bài Trấn
Bắc Hoành Cung Hoài Cổ:
Trấn Bắc
hành cung cỏ
đãi dầu Khiến
người
qua đó chạnh lòng đau Chín tầng
sen rớt hơi
hương ngự Năm thức
mây phong nếp
áo chầu Sóng lớp phế
hưng coi đã
rộn Chuông hồi
kim cổ
lắng càng mau
Người
xưa cảnh cũ nào
đâu tá
Khéo ngẫn
ngơ thay lũ trọc đầu.
Bốn câu giữa
thật trác việt. Câu
1, 2,
7 cũng tao nhã.
Riêng câu 8 làm cho người đọc phải ngờ rằng thơ của Trần
Tế Xương hay Hồ
Xuân Hương lộn vào. Có thể
ví bài này là một
giai nhân tuyệt
sắc mà
2 bàn chân lại thô!
Bài Chơi Khán Đài Tức Cảnh
được nhiều
thức giả
tán thưởng:
Êm ái chiều xuân tới
Khán Đài Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai Ba hồi
triêu mộ
chuông gầm sóng
Một vũng
tang thương
nước
lẫn trời
Bể khổ
nghìn tầm mong tát cạn
Nguồn ân trăm
trượng
dễ khơi vơi Nào nào Cực lạc
là đâu tá
Cực lạc
là đây chín rõ mười.
Toàn bài không có câu nào kém. Nhưng so
với
bài Thăng Long, Trấn
Bắc thì bài này
xuống thấp 2 bậc. Thêm nữa 4 câu sau trong bài lại là 4 câu sau của bài phú đắc “Tới đây
mến cảnh
mến thầy. Tuy vui đạo
Phật chưa khuây lòng trần” của vua Lê Thánh Tông mà các sách đều chép rõ:
Câu chuyện trần duyên cũng nực cười Tuy vui đạo Phật chửa
khuây người Gió thông
đưa kệ
tan niềm
tục
Hồn bướm mơ
tiên lẫn
sự đời
Bể khổ
nghìn trùng mong tát cạn
Nguồn ân trăm
trượng
dễ khơi vơi Nào nào Cực Lạc
là đâu tá
Cực Lạc
là đây chín rõ mười
Không biết
là bà Huyện
đã mượn
thơ của
cổ nhân, hay người sau chắp vá? Bài thơ
bà Huyện
cũng như bài thơ
vua
Lê tuy không thuộc
về loại Thượng đẳng, song vẫn là
những vần giai tác. Nếu
không ghép
vào hạng Ưu,
cấp trung hay cấp hạ được
thì phải đặt vào hạng Bình cấp
thượng.
Hạng Ưu cấp trung, cấp hạ để dành cho
những bài có những câu trác tuyệt nhưng bên cạnh lại
có câu hoặc có
đôi ba chữ sút kém như bài Trấn
Bắc là một.
*
Làm được bài thơ xuất
sắc không khó lắm, song làm được một bài thơ toàn
bích thì thật thiên nan vạn
nan
Một bài thơ toàn
bích,
như
trên đã
nói phải
đẹp
cả trong lẫn ngoài, phải “văn chất
bân bân” và lật qua lật lại, xem tới
xem lui, vẫn không tìm thấy tỳ vết.
Như vậy chúng ta thử xét lại bài Thăng Long Thành Hoài Cổ của bà Huyện Thanh Quan xem
đã thật toàn bích chưa. Bài ấy các sách đều chép:
Tạo hóa gây chi cuộc hí
trường
Đến
nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa
hồn thu
thảo
Nền cũ lâu đài
bóng tịch dương Đá vẫn bền gan cùng
tuế nguyệt
Nước còn cau mặt
với tang
thương
Nghìn năm
gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây
luống đoạn trường.
Trong Úc Viên Thi Thoại, Đông Hồ giảng bình bài này. Họ Lâm khuyên son 54 chữ và nọc
2 chữ “vẫn bền” trong câu luận, vì
đó là
“2 phiến
đá chắn ngăn nguồn thơ
son đang một chiều lưu loát chảy
xuôi dòng”. Lại
nói thêm:
“vẫn bền”
đã vươn ngang dòng thi tứ,
là muốn nói theo phương diện thi pháp thi thần. Đến như đứng trên
phương diện thực
chất mà xét ra, đá
đâu phải là một
thể bất biến
mà “vẫn bền” cho được. Nay bảo
rằng “Đá vẫn bền gan”,
chẳng những không thông nguồn cảm hứng mà còn sai với
định luật
vật lý nữa. Do đó Đông Hồ đề nghị sửa
2 tiếng
“vẫn bền” ra “cũng sờn”.
Đá cũng
sờn gan cùng tuế
nguyệt
Nước còn cau mặt
với tang
thương.
Đông Hồ
phê bình rất
đúng và sửa lại
như vậy thì mạch
văn khỏi bị đứt.
Nhưng ý câu trên và
ý câu dưới
đều xuôi theo
một chiều,
lại thêm mới nghe qua thì
đặc
thù mà đi
sâu vào thì tương cận,
bị mắc
vào bệnh “hợp chưởng”. Ví như câu thơ của Đỗ Phủ:
Hoa kỉnh bất
tằng duyên khách tảo
Bồng môn kim thủy
vị quân khai
(Đường hoa chẳng từng
nhân có khách mà quét
Cửa bồng
hôm nay vì chàng mới mở
ra)
Các nhà thi học
chê là “trùng
phức” bởi “hoa kỉnh” với “bồng môn”, “duyên
khách tảo” với
“vị quân khai”, ý
đại để cũng là một mà thôi.
Câu của bà Huyện Thanh Quan tôi nghe truyền là:
Đá
dẫu bền gan cùng
tuế nguyệt
Nước còn cau mặt
với tang
thương
Đá kia tượng trưng cho Chí. Nước
kia
tượng trưng cho Tâm.
Đứng trước cảnh tang thương của cảnh
vật, chí dẫu không
sờn, song lòng
không thể không động.
Ý nói: Dù ai nuôi chí “rèn
đá vá trời”,
gan vững
bền
cùng ngày tháng đi
nữa, mà
nhìn thấy
dấu
xưa, nghĩ đến
cuộc bể dâu đã
trải thì làm sao lòng khỏi bị
xúc động
như
mặt nước gió xao.
Người có chí lớn còn thế,
huống hồ phận
cân quắc phong lưu, sao cho khỏi
đoạn trường
khi soi gương kim cổ.
Nghìn thu gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây
luống đoạn trường.
Với chữ
Dẫu, lời
đã liền, mạch
đã thông mà
ý lại khúc. Tôi tin chắc rằng chữ
Dẫu là của bà Huyện:
Đá
dẫu bền gan cùng
tuế nguyệt
Nước còn cau mặt
với tang
thương
Châu đã về
Hợp Phố rồi
thì câu thơ trở nên hoàn
hảo.
Nhưng theo tôi thì bài thơ chưa
thật hoàn toàn là viên
“khuê
bích vô hà”
vì có tỳ vết, một
tí thôi ở nơi cặp trạng:
Lối xưa xe ngựa
hồn thu
thảo
Nền cũ lâu đài
bóng tịch dương
“Bóng” đối với “hồn”, “tịch
dương” đối “thu thảo” về
mặt tự dạng thì thật
chỉnh. Nhưng về
mặt ý nghĩa thì nặng
nhẹ không
được
cân. Bởi Bóng
Tịch Dương là một
mà Hồn thu thảo
lại là
2. Bóng tịch dương là một
vì Bóng
đứng
riêng một
mình thì là danh từ mà ghép chung vào Tịch
dương thì Bóng lại trở
thành loại tự dính liền vào
Tịch dương. Còn Hồn
thu
thảo là 2
vì có nghĩa là hồn
của thu thảo. Hồn đứng riêng một
mình hay đứng chung với Tịch
dương vẫn là
danh từ mà 2 chữ Tịch dương là bổ
túc từ.Thêm nữa
thu thảo
đã được
nhân cách hóa bởi chữ
Hồn còn Tịch
dương vẫn giữ
nguyên “tánh chất”. Chữ
Bóng ghép
vào
không có mảy
may ảnh
hưởng vì chữ Bóng
không có công
dụng nên có cũng
được mà không có cũng
được. Chữ Hồn trái lại, có tác động mạnh như
chúng ta
đã
thấy. Cho nên trong 2 câu thơ này, Hồn là hoạt tự, Bóng là
tử tự. Đối
nhau không được chỉnh là vì vậy đó.5
Nhưng
đó là lối
trách bị
hiền giả của kẻ
“cầu toàn” chớ bài
Thăng Long Thành hoài Cổ
vẫn giữ giá “liên thành” mà từ xưa đã
ấn định.
Và tôi “xuy mao”
không có mục
đích nào
khác
hơn là
để
chứng minh cho lời
nói “Làm được một bài thơ toàn
bích
thật
thiên nan vạn
nan” và cũng để nhủ thầm cùng bạn
đồng thanh nên rộng rãi khi tuyển thi, bởi
ngọc nào cũng thường có ít
nhiều tỳ vết.