Từ Deeksha Bhoomi: Nghĩ về Phong Trào Phục Hưng Phật Giáo của B.R. Ambedkar
Mười giờ sáng nhưng
trời đã nắng gắt, mùa hè ở Nagpur nóng hơn rất nhiều so với nhiều nơi khác ở Ấn.
Chuyến tàu đến đúng chính xác giờ như được ghi trong vé. Vì thời gian ở Nagpur
chỉ được hai ngày, nên vừa xuống tàu tôi đã đón rickshaw đi ngay đến Deeksha
Bhoomi, một địa danh mà tôi cần đến trong chuyến đi Nagpur lần này.
Nếu như Bodhgaya được
coi là thánh địa của Phật tử khắp nơi trên thế giới, thì Deeksha Bhoomi được xem
là thánh địa của những Phật tử mới Ấn Độ, tức những Phật tử cải từ Ấn giáo sang
Phật giáo từ sau phong trào của B.R. Ambedkar.
Deeksha Bhoomi khá vắng
người khi tôi đến, chỉ có một vài gia đình, cả Phật giáo và Ấn giáo, đến tham
quan chiêm bái, và một số sinh viên của trường đại học bên cận sang chơi và học
bài. Deeksha Bhoomi chưa bị sự xâm lấn của những dịch vụ kinh doanh như những
Phật tích khác ở Ấn Độ. Điều này có thể do vì không có nhiều những đoàn chiêm
bái nước ngoài đến đây, tức là vì chưa có “cầu” nên chưa có “cung”.
Ngôi tháp hình vòm màu trắng, tọa lạc bên một trục đường lớn ở
thành phố Nagpur, nổi bật và ấn tượng trong một ngày hè rực nắng. Ngôi tháp này được lấy mô hình từ tháp Sanchi ở Madhya Bradesh.
Ngay cả cổng tháp cũng phỏng theo cổng tháp Sanchi.
Deeksha Bhoomi được xây dựng tại nơi B.R. Ambedkar tổ chức lễ quy y
theo Phật giáo vào năm 1956. Tầng trệt của tháp thờ tôn tượng Đức Phật,
và cũng dành một gốc trưng bày những bức ảnh của Tiến sĩ Ambedkar có liên quan
đến sự kiện ông cải đạo sang Phật giáo. Tầng trên của tháp để
trống, bên trong có treo một bức ảnh B.A. Ambedkar khổ lớn.
Tầng này có lẽ dùng làm hội trường trong những dịp lễ lớn hoặc những buổi quy y
tập thể. Vào những ngày thường, tầng trên này không mở
cửa. Nhưng người gác cổng ở tầng tháp dưới, một Phật tử, khi thấy tôi lên
tầng trên đã tự nguyện lên theo mở cửa cho tôi vào bên
trong, dù tôi không có đề nghị gì.
Bên trong tháp, ở tầng dưới, một vài gia đình vào lễ Phật và tĩnh
tọa. Không có việc đốt nhang đèn
và cũng không có những lễ nghi.
Mọi việc đều giản đơn, trầm lặng, nhưng cũng cung kính và chí thành.
Các Phật tử lễ Phật trong tháp xong, thường ra lễ bái tượng B.R. Ambedkar được
tôn trí ở bên ngoài tháp, bên cạnh tôn tượng Đức Phật.
Tôi hỏi chuyện một Phật
tử rằng ông có thường đến Deeksha Bhoomi không, thì ông trả lời thường đến đây
một tuần một lần; và hôm nay ông đến lễ Phật và Ambedkar là vì ngày sinh nhật
của cô con gái của ông. Hai cha con tỏ ra rất hoan hỉ, sau khi thực hiện một
việc tâm linh có ý nghĩa đối với họ. Gia đình họ ở cách Bhoomi
3 km.
Ta biết rằng những
người cải sang Phật giáo từ sau phong trào B.R. Ambedkar đều xuất thân từ đẳng
cấp thấp, và ở Nagpur, phần lớn là những người thuộc đẳng cấp Mahar. Một vài gia đình mà tôi gặp ở đây, họ đều nói thuộc đẳng cấp này.
Nhưng khi tôi hỏi ông bố và cô bé rằng, có phải những người sau khi quy y rồi sẽ
không còn đẳng cấp nữa, thì họ nói đúng là như vậy. Tuy nhiên,
ông vẫn thừa nhận rằng ông là người thuộc đẳng cấp Mahar.
Ông nói rằng bắt đầu từ đời bố mẹ, gia đình ông mới theo
Phật giáo, còn những thế hệ trước đều theo Ấn giáo.
Mahar là một đẳng cấp
cùng đinh và chiếm 10 phần trăm dân số ở bang Maharashtra.
Trước đây nghề nghiệp của đẳng cấp này giới hạn ở những công việc như quét tước,
giặt giũ và phục vụ cho những người giàu. Từ sau khi cải đạo sang Phật
giáo, những người thuộc đẳng cấp này hầu như bỏ nghề nghiệp cũ để chuyển
sang làm nông nghiệp, một số khác vào các thành phố để làm những công việc khác.
Ở phía bên phải của
tháp từ bên ngoài vào, có dựng một tấm bia lớn ba mặt, ghi 22 lời thệ nguyện của
B.R. Ambedkar khi ông quy y Phật giáo, và những lời nguyện này cũng dành cho tất
cả những người quy y theo Phật giáo về sau:
1. Tôi sẽ không tin
Brahma, Vishnu và Mahesh, cũng không thờ phượng họ.
2. Tôi không tin Rama
và Krishna, những vị được coi là hóa thân của Thần linh, tôi cũng sẽ không thờ
phượng họ.
3. Tôi không tin vào
Gauri, Ganapati và những thần và nữ thần khác của người Ấn giáo, tôi cũng sẽ
không thờ phượng họ.
4. Tôi không tin vào sự
hóa thân của Thần linh.
5. Tôi không và sẽ
không tin rằng Đức Phật là hóa thân của thần Vishnu. Tôi tin đây là điều hoàn
toàn nhảm nhí và sự tuyên truyền dối trá.
6. Tôi sẽ không thực
hiện ‘shraddha’[1],
tôi cũng sẽ không dâng cúng ‘pind-dan’[2].
7. Tôi sẽ không hành
động theo một thể thức mà nó vị phạm những nguyên tắc
và lời dạy của Đức Phật.
8. Tôi sẽ không theo bất kỳ nghi lễ nào do các Bà-la-môn thực hiện.
9. Tôi sẽ tin vào sự
bình đẳng của con người.
10. Tôi sẽ nỗ lực thiết
lập sự bình đẳng.
11. Tôi sẽ theo Bát chánh đạo của Đức Phật.
12. Tôi sẽ theo các Ba-la-mật do Đức Phật đặt ra.
13. Tôi sẽ thể hiện
lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh và bảo hộ họ.
14. Tôi sẽ không trộm
cắp.
15. Tôi sẽ không nói
dối.
16. Tôi sẽ không phạm
tà hạnh.
17. Tôi sẽ không sử
dụng các chất gây say nghiện như bia rượu và mà tuý…
18. Tôi sẽ nỗ lực thực
hành Bát chánh đạo và thực hành lòng từ bi trong đời sống hàng ngày.
19. Tôi từ bỏ Ấn giáo,
tôn giáo có hại cho loài người và làm cản trở sự tiến bộ và phát triển của loài
người bởi vì tôn giáo này được đặt cơ sở trên sự bất bình đẳng, và [tôi] chọn
Phật giáo làm tôn giáo của tôi.
20. Tôi tin tưởng kiên
định Pháp (Dhamma) của Đức Phật là tôn giáo duy nhất đúng.
21. Tôi tin rằng tôi
đang sinh trở lại.
22. Tôi chính thức
tuyên bố và khẳng định rằng từ này trở đi tôi sẽ sống theo
những nguyên tắc và lời dạy của Đức Phật và Pháp của Ngài.
Khi tôi hỏi hai bố con
vị Phật tử có thờ Phật và B.R. Ambedkar ở nhà không thì họ trả lời có. Tôi hỏi thêm rằng vậy có thờ bất cứ vị thần nào của Ấn giáo không
thì họ trả lời không, và cho rằng việc thờ như vậy là sai. Nhưng tôi nói
với họ rằng theo tôi biết (qua những quyển sách viết về tình hình Phật giáo hiện
nay ở Ấn và những gì tôi đã chứng kiến tại những gia đình Phật tử ở
Maharashtra), thì hầu như những gia đình Phật tử theo B.R. Ambedkar cùng một lúc
thờ Đức Phật, B.R. Ambedkar và các vị thần Ấn giáo.
Vị Phật tử này xác nhận rằng điều này là có thực, nhưng với
gia đình ông thì không hề có điều đó. Tín ngưỡng mới
của những Phật tử mới này, thường được mô tả là “thờ Phật và B.R. Ambedkar ở
phòng trước, thờ các thần Hindu ở phòng sau”.
Tuy nhiên, trong thực tế, sự thờ phượng tượng ảnh không được phân
chia một cách riêng biệt như vậy. Sự phụng thờ tượng ảnh có khi được gộp chung trong một phòng. Có khi tượng Phật được đặt một cách
khiêm tốn ở một bên, còn tranh tượng các vị guru Ấn giáo được đặt chính diện căn
phòng. Những thệ nguyện của B.R. Ambedkar đặt ra, nhiều tân Phật tử đã không hề
theo.
Điều này phải chăng việc thờ các vị thần Ấn giáo đã trở thành
một truyền thống và người ta không thể từ bỏ nó một cách dễ dàng, hay vì việc
chỉ thờ Đức Phật và B.R. Ambedkar là không đủ hay không thỏa mãn họ?
Khác với những Phật tử
truyền thống là chỉ có Ba quy y, Phật tử theo B.R.
Ambedkar có đến Bốn quy y, đó là ngoài quy y Phật-Pháp-Tăng, họ còn có thêm thệ
nguyện là quay về nương tựa B.R. Ambedkar. Nhưng có lẽ B.R. Ambedkar sẽ không
ngờ rằng, sau này những người theo ông không chỉ xem
ông như một người thầy đưa họ trở lại với Phật giáo, hay một vị thầy dẫn đạo, mà
còn thánh hóa ông như một vị thần. Phật tử đến lễ B.R.
Ambedkar không chỉ như đến lễ bái một vị thầy với sự tri ân, mà cũng còn cầu xin
sự gia hộ trong học hành và công việc.
Trong 22 lời thệ nguyện
được đặt ra, ta thấy có những thệ nguyện nêu cao sự bình đẳng và nỗ lực thiết
lập sự bình đẳng vào trong đời sống, tuy nhiên ta không thấy thệ nguyện nào
tuyên xưng sẽ từ bỏ hệ thống đẳng cấp sau khi quy y. B.R. Ambedkar rất nhấn mạnh
việc từ bỏ niềm tin vào các thần linh Ấn giáo. Tuy nhiên, nếu
xét đến sự khái quát, thì có lẽ câu “Đệ tử quy y Phật nguyện đời đời kiếp kiếp
không quy y thiên thần quỷ vật; đệ tử quy y Pháp nguyện đời đời kiếp kiếp không
quy y ngoại đạo tà giáo” hàm súc và bao quát hơn bốn thệ nguyện đầu của B.R.
Ambedkar. Thay vì nhấn mạnh vào từng vị thần Ấn giáo, có lẽ bao quát hơn
khi nhấn mạnh bằng một câu chung rằng: không quy y Chúa, Thần của tất cả các tôn giáo
khác!
Nhưng cũng hay là,
trong khi B.R. Ambedkar kêu gọi các Phật tử từ bỏ Ấn giáo một cách triệt để, thì
lại có những gia đình theo Ấn giáo “hành hương” về
Deeksha Bhoomi. Tại ngôi chùa nhỏ ở bên phải ngôi tháp, tôi thấy một vài gia
đình nghỉ ngơi và ăn trưa sau khi chiêm bái và đảnh lễ,
và họ nói rằng họ là những người Hindu. Hình như, cho dù B.R. Ambedkar tuyên bố
rằng Đức Phật không phải là hóa thân của thần Vishnu, thì những người Ấn giáo
vẫn xem Ngài như một vì thần của Ấn giáo. Cũng giống như việc Ambedkar khuyên
những người theo ông chớ có tin vào các thần linh của Ấn giáo, thì các
Phật tử vẫn kết hợp việc thờ các thần linh này cùng chung với việc thờ Phật.
Phong trào của B.R. Ambedkar được cho là đã thành công ở lĩnh vực
chính trị-xã hội, nhưng đã không thành công ở lĩnh vực tín ngưỡng-tôn giáo. Những Phật tử theo
phong trào này, nói chung đã thay đổi đáng kể vị thế xã hội nhờ vào sự thay đổi
nghề nghiệp và việc phát triển giáo dục. Nhưng những Phật tử mới này đã không
cải sang Phật giáo một cách triệt để, tức là niềm tin và sự phùng thờ các vị
thần Ấn giáo vẫn còn được họ thực hành, và niềm tin mới bị trộn lẫn vào trong
truyền thống cũ. Và những người này rất dễ đánh mất tôn giáo
mới của mình nếu phong trào suy yếu.
Nhưng khuynh hướng này có lẽ cũng tất yếu đối với những Phật tử
mới này. “Tôn
giáo” của B.R. Ambedkar hướng nhiều về triết học xã hội với việc đề cao những
nguyên tắc đạo đức và các giá trị loài người phổ quát. Nhưng đối với
những Phật tử thuộc đẳng cấp thấp và thất học, thì quy y sẽ không chỉ quay về
nương tựa những nguyên tắc đạo đức và những giá trị con người phổ quát, hay là
việc ứng dụng những pháp môn tu tập nhằm mục đích thanh tịnh tâm ý, mà còn là sự
nương tựa để được “che chở” và “phù hộ”. Và khi Đức Phật luôn được nhấn mạnh
không phải là thần linh có khả năng “che chở” và “phù hộ”, thì người ta buộc
phải bổ sung vào “hệ thống tín ngưỡng” của mình những vị thần khác.
Tuy nhiên không phải các Phật tử mới đều như vậy. Phật tử ở (Maharashtra) Ấn Độ được chia làm ba
thành phần.
Thành phần thứ nhất là các Phật tử ở các ngôi làng, và cộng đồng này được xem là
một sự biến thể của Ấn giáo, bởi vì họ đã không có những thay đổi triệt để về
một số vấn đề căn bản sau khi quy y. Ví dụ, họ vẫn còn thờ phượng các vị thần Ấn
giáo, và vẫn còn thừa nhận hệ thống đẳng cấp. Thành phần thứ hai là một dạng Phật giáo “trí thức”, đề cao chủ
nghĩa duy lý và dân chủ xã hội. Ngược lại với cộng đồng
Phật tử ở các làng quê, thành phần này từ bỏ triệt để việc thờ phượng các thần
linh của Ấn giáo cũng như sự phân chia đẳng cấp; và họ cũng từ bỏ một số giáo
pháp căn bản của Phật giáo truyền thống. Những Phật tử này chỉ chấp nhận
những giá trị như sự bình đẳng, nhân phẩm, sự tự lực, chấp nhận giáo dục hiện
đại, tính hợp lý khoa học, dân chủ, quyền con người, và bác bỏ niềm tin vào
những yếu tố siêu nhiên… Và thành phần này cũng chối bỏ niềm
tin vào học thuyết nghiệp cũng như tái sanh. Thành phần
này giải thích khổ và nguyên nhân của khổ xuất phát từ những mô thức xã hội, hơn
là phát xuất từ tâm thức. Và như vậy để giải thoát khổ đau,
theo họ, phải cải cách xã hội. Thành phần Phật giáo thứ
ba là sự kết hợp Phật giáo truyền thống và những giá trị xã hội phổ quát hiện
đại. Họ chấp nhận Phật giáo truyền thống, nhưng đã giải thích lại một số
giáo pháp theo cách của họ, mà họ cho là để thích ứng
với xã hội hiện đại.
B.R. Ambedkar và những người lãnh đạo của phong trào này được xếp
vào thành phần Phật tử thứ hai. Nhưng trớ trêu là, cho dù B.R. Ambedkar cố
gắng cổ xúy một mô hình Phật giáo khoa học với những giá trí nhân bản, thì quần
chúng theo ông lại hầu như thuộc về thành phần Phật
giáo thứ nhất. Chính bởi điều này, B.R. Ambedkar bị phê bình là đã xây dựng nên một
phong trào tôn giáo thiếu xét đến những yếu tố nhân chủng và xã hội học.
Cộng đồng dân làng nghèo mà B.R. Ambedkar nhằm đến để đưa họ ra khỏi những trói
buộc của tôn giáo cũ và những định chế văn hóa, khó có thể thực hiện được mô
thức tôn giáo do Ambedkar xây dựng. Thêm nữa, bởi vì muốn xây dựng một Phật giáo
mới theo quan kiến của mình, B.R. Ambedkar bị phê bình
mạnh mẽ bởi bị cho là “xuyên tạc” giáo pháp của Đức Phật.
Tuy nhiên, ba thành phần Phật tử này đâu chỉ hiện diện ở
(Maharashtra) Ấn Đô, mà có mặt ở nơi nhiều xã hội Phật giáo. Như ở Việt Nam, chúng ta
không khó nhìn thấy ba thành phần Phật tử như thế này.
Đó là một đạo Phật “dân gian” phổ biến trong xã hội.
Đức Phật mà họ tin theo là có khả năng ban phước và gia
hộ. Và họ có thể cùng một lúc thờ cả Phật, Mẫu, ông Địa, ông Táo, Quan Công…. Và
với thành phần này (thường chiếm phần trăm rất lớn), nếu Đức Phật không có
“quyền năng” gì, không đáp ứng được những nhu cầu “cầu an” và “cầu siêu”, thì
niềm tin vào đạo Phật sẽ trở nên mờ nhạt.
Thành phần Phật tử thứ hai tạm gọi là Phật tử trí thức. Những người luôn đặt Phật giáo dưới ánh sáng
khoa học và đôi khi dường như đang theo
“chủ nghĩa xét lại”. Và có người còn cho rằng những điều gì không phù hợp với
khoa học thì nên loại bỏ!
Thành phần thứ ba là
chấp nhận Phật giáo truyền thống, nhưng giải thích theo
một cách, mà theo họ là để thích ứng được với xã hội hiện tại. Bên cạnh cũng có
người cố gắng muốn thực hành một hình thức Phật giáo như được trình bày trong
các Nikaya…
Phật giáo mới của B.R. Ambedkar có đặt ra nghi lễ cho việc kết
hôn. Nhưng do vì nền tảng chủ đạo là xây dựng một
tôn giáo “phi thần linh”, nghi lễ này chỉ là dịp để cô dâu và chú rễ thực hiện
những cam kết với nhau; và những cam kết này được dựa trên kinh sách Phật giáo,
cụ thể là kinh Thiện sinh. Ví dụ tại buổi lễ kết hôn, chú rễ sẽ cam kết
với cô dâu những điều sau:
Tôi sẽ tôn trọng vợ của mình.
Tôi sẽ không sỉ nhục cô ấy.
Tôi chứng minh sự tôn
trọng của tôi đối với vợ của mình bằng việc tránh sử dụng những chất và thức
uống gây say nghiện, và không làm việc tà hạnh.
Tôi sẽ làm cho vợ tôi được hạnh phúc bằng việc trao cho cô ấy tài
sản và đáp ứng những nhu cầu cần thiết của cô ấy.
Tôi sẽ làm cho vợ tôi hài lòng bằng việc trao cho cô ấy những đồ
trang sức và y phục.
Còn cô dâu sẽ cam kết
với chú rễ những điều sau:
Tôi sẽ giữ cho nhà mình gọn gàng, sạch sẽ.
Tôi sẽ làm vui lòng chồng mình, những thành viên trong gia đình
và thân bằng quyến thuộc, những người lớn tuổi và những người giúp việc trong
nhà, bằng sự hành xử tử tế và đứng đắn của tôi.
Tôi sẽ bảo quản tài sản
do chồng mình kiếm được bằng phương tiện mưu sinh chân chính.
Tôi sẽ cẩn thận trong
mọi việc nhà và không để sự lơ đễnh hay cẩu thả nào xảy ra.
Buổi lễ kết hôn thường
được tổ chức đơn giản; và trong buổi lễ kết hôn, gia đình sẽ không đãi người đến
tham dự thức ăn mặn và rượu, hai thứ mà theo truyền thống là không thể thiếu
trong các tiệc cưới; và nếu thiếu hai thứ này một buổi lễ kết hôn không được xem
là thành tựu.
Tuy nhiên, nghi lễ dành cho việc kết hôn không hoàn toàn được đặt
cơ sở trên giáo lý Phật giáo và cũng không phải đã từ bỏ đi những tục lệ truyền
thống. Việc chọn người hôn phối được cho là vẫn còn
tuỳ thuộc vào cha mẹ, và việc chọn người hôn phối thường giới hạn trong từng
nhóm có chung dòng dõi (jati)
ở trong một ngôi làng, mặc dù B.R. Jamkhedkar luôn kêu gọi những người theo ông
hãy kết hôn với những người khác đẳng cấp để phá bỏ đi hệ thống đẳng cấp…
Thay lời kết
Sau khi rời Deeksha
Bhoomi, tôi lại đến Dragon Palace Buddhist Temple, một ngôi chùa do người Nhật
xây dựng ở Kamptee, cũng thuộc thành phố Nagpur. Dọc đường đến
Gragon Temple, tôi thấy nhiều tượng của B.R. Ambedkar được dựng hai bên đường.
Ở thành phố Nagpur nói riêng và ở bang Maharashtra nói chúng, sự ảnh hưởng của
B.R. Ambedkar vào đời sống chính trị xã hội thật sự sâu sắc.
Tên tuổi của ông không chỉ được đặt tên đường, tên trường học và các qũy từ
thiện, mà cũng còn được sử dụng cho những lần tranh cử. K. Ramakrishna
Rao, Chủ tịch Uỷ ban nghiên cứu triết học Ấn Độ cho rằng ở Ấn Độ hiện đại, sự
ảnh hưởng của B.R. Ambedkar vào đời sống xã hội chỉ đứng sau Mahatma Gandhi, mà
ở trên tất cả những chính khách và những nhà cải cách xã hội khác.
Và như tôi đã đề cập ở
trước, phong trào của B.R. Ambedkar được cho là đã thành công ở lĩnh vực chính
trị -xã hội, nhưng không thành công ở khía cạnh tín ngưỡng-tôn giáo, cho dù số
người cải từ Ấn giáo sang Phật giáo mới của B.R. Ambedkar là rất đông đảo và mỗi
năm vẫn có hàng trăm ngàn người tiếp tục đi theo phong trào này. Bởi vì với việc
cải đạo nửa vời và việc bị chi phối quá sâu sắc bởi tín ngưỡng Ấn giáo, và bởi
vì văn hóa Phật giáo chưa đủ mạnh so với văn hóa Hindu ở những ngôi làng theo
Phật giáo, những người này sẽ dễ dàng quay trở lại với tôn giáo cũ mỗi khi phong
trào bị suy yếu, và mỗi khi những người lãnh đạo phong trào không gần gủi và
kiểm soát được “tín đồ” của mình./.
Nguyên Hiệp
[1] Shraddha là một lễ cúng tổ tiên, đặc biệt là
cha mẹ quá vãng, của những người Hindu.
[2] Pind-dan là một hình thức dâng cúng đồ
ăn cho những người quá vãng vào các dịp cúng dỗ hay khi đến các thánh
địa… Người Hindu tin rằng việc dâng cúng này sẽ làm cho những linh hồn quá vãng
hết đói khát. Thức ăn này sau đó được đem cho bò, qụa,
hay được đổ xuống nước.