| 
	Chúng ta đang sống ở một thời đại đặc biệt. 
	Phật pháp bây giờ đã được khắp thế giới 
	biết 
	đến. 
	Phật 
	pháp được thực hành 
	ở những vùng đất mới, trong dân chúng với những truyền thống và mối quan tâm khác nhau. Phật pháp đang đóng góp vào một 
	nền 
	văn hóa mới toàn cầu.   | 
 Điều 
này thật thú vị và phấn khích. Và là những 
Phật tử chúng ta có thể hân hoan khi thấy rằng năng lực chữa trị của lời dạy Đức 
Phật đang được người ta lắng nghe khắp nơi. Nhưng có 
một mặt khác của việc phát triển này.  
Việc truyền bá Phật pháp đến một nền văn hóa mới, đặc biệt khi 
nền văn hóa đó đang gia tăng ưu thế toàn cầu, tạo ra cho Phật giáo những nguy cơ.
Điều 
này thật thú vị và phấn khích. Và là những 
Phật tử chúng ta có thể hân hoan khi thấy rằng năng lực chữa trị của lời dạy Đức 
Phật đang được người ta lắng nghe khắp nơi. Nhưng có 
một mặt khác của việc phát triển này.  
Việc truyền bá Phật pháp đến một nền văn hóa mới, đặc biệt khi 
nền văn hóa đó đang gia tăng ưu thế toàn cầu, tạo ra cho Phật giáo những nguy cơ.
Tôi xin 
nói rõ nguy cơ này. 
Thế giới hiện đại đã phát triển mà không có sự hiểu biết về Pháp (Dharma). Những thực hành, giá trị và quan điểm hiện đại được đặt cơ sở nơi 
những khái niệm, sự nhận thức và niềm tin mà chúng thường trái ngược với lời dạy 
của Đức Phật. Đây là nơi nguy cơ tiềm tàng. Nếu những 
người phương Tây thích ứng với Phật giáo quá nhanh chóng, nhìn nó bằng con mắt 
hiện đại, kết quả có thể làm tổn hại Phật giáo.
Phật giáo có thể bị sáp hợp hay bị loại bỏ: không phải một cách cố ý, mà chỉ vì 
thế giới hiện đại thiếu khả năng hiểu và thực hành Phật pháp ở một tầm mức sâu.
Nhưng nguy 
cơ thậm chí còn lớn hơn điều này. Cách hiểu hiện 
đại về thực tại đang trở thành cái hiểu toàn cầu về thực tại. Nó đang biến đổi những nền văn hóa truyền thống, bao gồm những nền 
văn hóa mà ở đó giáo pháp Đức Phật đã đặt nền tảng cho việc tìm kiếm ý nghĩa 
trong đời sống. Nếu việc hiểu của chúng ta về Phật pháp 
phản ảnh những sự phát triển hiện đại này, thì một sự giải thích méo mó và hạn 
chế về giáo pháp có thể gây hiểu nhầm về những lời dạy chân thật của Đấng Giác 
ngộ.  Nếu điều này xảy ra, Phật giáo có thể không còn nữa 
đối với loài người.
Văn hóa 
hiện đại là nguồn của công nghệ đáng kinh ngạc và của tri thức khoa học sâu sắc. Những thành tựu 
của nó, mà chúng ta thường chấp nhận không chút phân vân, đã giúp chúng ta từ 
khắp mọi nơi trên thế giới đến đây; chúng khiến cho hội nghị lớn này nghe được 
lời nói của tôi.
Tuy nhiên nền văn hóa giống nhau này vô cùng hỗn loạn. 
Khắp mọi nơi, người ta đang trôi dạt không phương hướng giữa một đại dương mênh 
mông không đảm bảo và hỗn độn. Xung đột và đối kháng sâu sắc đe dọa nhấn chìm thế giới này trong 
tranh chấp.
Những thế lực quyền lực tiêu cực tạo nên hiểm nguy cho tất cả 
loài người.  Họ thậm chí đe dọa 
trái đất, nơi chúng ta nương náu, nơi chúng ta tìm kiếm hạnh phúc và ý nghĩa đời 
sống.
Chính ở 
bên trong nền văn hóa này, với tất cả sự yếu kém, mâu thuẫn và gãy vỡ của nó, 
Phật giáo sẽ phải định hướng đi của mình. Hơn 2.500 năm 
qua, Phật pháp đã hướng dẫn nhiều người. Tuy nhiên bây 
giờ, Phật pháp đang sống ở một thế giới mới xa lạ, một thế giới mà nó nói một 
ngôn ngữ khác và nhìn thực tại bằng một cách thức khác.
Trong bối cảnh mới này, Phật pháp sẽ phải học cách nói bằng 
một tiếng nói mới.  Bằng cách nào 
đó, Phật pháp và xã hội hiện đại phải đi vào đối thoại.
Là những 
Phật tử thuần thành, tin chắc vào giá trị của Phật pháp ở nơi chính xã hội của 
chúng ta và đối với thế giới nói chung, chúng ta phải giúp Phật pháp tìm được 
tiếng nói mới này, để Phật pháp có thể tiếp xúc với thế giới hiện đại, làm cho 
thế giới lắng nghe theo những phương cách không làm méo mó giáo pháp. 
Nếu chúng ta quay lưng lại với những khuynh hướng đang định hình nên thế giới 
ngày nay, nếu chúng ta nói chuyện với những người thực hành Phật pháp khác bằng 
những phương thức cũ và bằng những ngôn ngữ cũ, chúng ta sẽ hoàn toàn không nói 
được với ai cả. Thế giới sẽ quay mặt với Phật pháp. 
Nếu chúng ta không thể tìm ra được một tiếng nói cho Phật pháp nghe lớn và rõ 
hơn, vượt lên trên sự ồn ào huyên náo của thế giới khích động này, khả năng để 
Phật pháp làm lợi ích tất cả loài người ở thời điểm này sẽ không bao giờ được 
thực hiện.
Thế giới 
hiện đại thưởng công những người nói lớn. 
Ngày nay cả ngàn tiếng nói hét vang lên từ mỗi góc phố, từ mỗi màn hình máy 
tính. Chúng luôn đưa ra điều mới tiếp theo.
Sẽ là một nhầm lẫn khi cố hét át chúng, cạnh tranh sự chú ý 
nơi một đấu trường của giải trí và những quan tâm luôn thay đổi. 
Đức Phật khiển trách những lời nói vô bổ, khiển trách những lời nói đưa tinh 
thần con người rời xa những giá trị sâu sắc hơn. Sự cảnh báo này quan 
trọng hơn ngày hôm nay, khi mà thị trường đi theo chúng 
ta vào tận nhà và vào trong đầu của chúng ta, tràn lan và thâm nhập khắp mười 
phương. Nếu người thực hành Phật pháp bằng lòng sử dụng ngôn ngữ của thị trường, 
họ sẽ đưa ra một con đường tâm linh quá ư đơn giản được thiết định để làm cho 
người ta cảm thấy tốt cho họ, hơn là để chỉ một con đường giải thoát. 
Tất cả chúng ta biết những điều đó có thể kết thúc như thế nào, và những kết quả 
sẽ hết sức buồn chán như thế nào. Không… tiếng nói của Phật pháp cho thời hiện đại phải nói bằng một 
nhịp điệu và âm giọng khác. Nó phải thể hiện độ sâu và 
tầm nhìn rộng của lời dạy Đức Phật. Điều đó không bao giờ là một nhiệm vụ dễ 
dàng.  Bây giờ nó càng khó khăn hơn bao giờ hết.
Tất nhiên, 
chúng ta không thể từ bỏ. Chúng ta phải nỗ lực hết mình. 
Ở đây tôi muốn tập trung vào một khía cạnh cụ thể của trách nhiệm này. 
 Tại thời điểm quan trọng nơi lịch sử 
Phật pháp và lịch sử thế giới này, chúng ta phải nhằm đến việc trao tiếng nói 
cho Phật pháp bằng những ngôn ngữ của phương Tây, mà không đánh mất tinh thần và 
ý nghĩa của Phật pháp khi chúng ta làm như vậy.
Cho phép 
tôi nói điều này rõ hơn. Bây giờ và những năm đến, Phật 
giáo phải học nói tiếng Anh.
Tại sao? Bởi vì tiếng Anh đang nhanh chóng trở thành 
ngôn ngữ chung
của thế giới. Nhưng tiếng Anh chúng ta sử dụng bây giờ là ngôn ngữ của kinh 
doanh và thương mại, ngôn ngữ của giải trí và công nghệ, ngôn ngữ được thiết 
định để nói với chúng ta những cái mới của “cái mới tiếp theo”. 
Dạng tiếng Anh đó hoàn toàn không giúp hiểu được ý nghĩa đầy đủ giáo pháp thâm 
sâu của Đức Phật. Do vậy công việc sắp đến là lớn hơn trước đây chúng ta 
có thể tưởng tượng. Công việc chuyển dịch kinh Phật sang tiếng Anh đã được thực 
hiện hơn một thế kỷ, và nhiều việc đã được thực hiện. Nhưng bây giờ không chỉ cần có thêm những bản kinh được chuyển dịch, 
mà còn cần một giải pháp hoàn toàn mới. Nếu các bản dịch không chứa đựng được ý nghĩa đầy đủ của Phật pháp, 
có nghĩa chúng chưa được chuẩn bị đủ. Chúng ta phải 
mạnh dạn hơn.  Chúng ta phải thực 
hiện mục đích là biến tiếng Anh thành một ngôn ngữ của Phật pháp.
Tại sao 
thực hiện công việc này là thực sự quan trọng? Tại sao tiếng 
Anh phải trở thành một ngôn ngữ của Phật pháp?
Bởi vì những ngôn ngữ Phật pháp mà chúng phục vụ chúng ta qua 
hàng thế kỷ đang có nguy cơ biến mất. Có bao nhiêu 
người ngày hôm nay có thể đọc được tiếng Pāli? Có bao 
nhiêu người ngày hôm nay biết tiếng Sanskrit hay những ngôn ngữ khác của Phật 
giáo Đại thừa? Nếu chúng ta nhìn về trước thêm 20 hay 50 năm nữa, có bao 
nhiêu người còn biết đến những ngôn ngữ này? Sự hợp lý nội tại của một xã hội 
đang gia tăng tính toàn cầu đòi hỏi rằng dân chúng của thế giới phải nói cùng 
một ngôn ngữ. Nếu Phật pháp không thể tìm thấy tiếng nói của mình ở nơi ngôn ngữ 
đó, nếu nó không thể nói ngôn ngữ đó với đầy đủ thẩm quyền, tính chính xác và 
chiều sâu của nó, nó sẽ không có vị trí nơi nền văn hóa toàn cầu mới mẻ.
Một vài 
người có thể đáp lại rằng Phật pháp đã nói tiếng Anh rồi. Xét cho cùng, chúng ta ở đây, tập 
trung lại với nhau từ tất cả mọi nơi trên thế giới, chia sẻ quan điểm của chúng 
ta bằng tiếng Anh. Vậy không phải chúng ta có một ngữ 
vựng Phật pháp chung rồi sao? Chúng ta không phải đã có 
thể trình bày giáo pháp đến thế giới hiện đại rồi sao?  
Có sự thật 
nơi lời khẳng định này. Những vị thầy 
lớn đang dần học cách trình bày giáo pháp bằng tiếng Anh, hay nói thông qua 
những người phiên dịch đã học sâu giáo pháp. Những người Tây phương cũng 
đang học và thực hành theo những con đường xưa, để họ 
có thể chia sẻ với người khác lợi ích của việc thực hành của họ. Và nếu những nỗ 
lực để tái thiết lại Phật pháp ở Ấn Độ được tiếp tục, những nỗ lực mà ở đó tôi 
tự hào đóng một vai trò nhỏ, thì triển vọng sẽ sáng sủa hơn, vì Ấn Độ là duy 
nhất trong việc kết hợp những truyền thống tâm linh vững mạnh với một sự am hiểu 
sâu về tiếng Anh.
Lại nữa, 
để ỷ lại vào những sự phát triển này, để nghĩ rằng những vấn đề sắp được giải 
quyết rồi, là bỏ qua một điểm cơ bản. Đây là một câu hỏi cần xem xét: 
Điều gì khiến chúng ta nghĩ rằng ngữ vựng tiếng Anh chúng ta sử dụng ngày nay 
trong những bài pháp thoại và những bản dịch của chúng ta là chuyển tải được sức 
mạnh và chân lý của lời dạy Đức Phật? Ngay đối với những thuật ngữ căn bản nhất 
điều này có thể là một giả định sai lầm.
Một nhà 
thơ vĩ đại người Anh thế kỷ XIX, Percy Bysshe Shelly, từng viết 
rằng “những nhà thơ là những nhà lập pháp không được thừa nhận của cuộc đời”. 
Điều ông muốn nói là rằng những người trao cho chúng ta ngôn từ của chúng ta, 
những người tạo ra ngôn ngữ luôn thay đổi của chúng ta, sẽ định hướng cách chúng 
ta hiểu thực tại. Vì vậy chúng ta phải hỏi: những gì là thực tại mà những 
bản dịch và thuật ngữ tiếng Anh của ngày hôm nay xây dựng nên? 
Từ ngữ gì họ sử dụng để chuyển tải đến thính giả chân lý giáo pháp Đức Phật?
Nếu những dịch giả chỉ nắm được nghĩa tương 
đương gần nhất của Tây phương về những thuật ngữ Phật học vốn có nghĩa uyên áo, 
thì thực sự có thể chuyển tải được bao nhiêu?
Điều này 
không phải là một quan tâm học thuyết hay học thuật. Xung 
quanh chúng ta, chúng ta có thể nhìn thấy những người Tây phương diễn đạt những 
quan điểm giới hạn của họ về chân lý huyền nhiệm mà Đức Phật đã thiết định. 
Ví dụ, có một xu hướng mạnh mẽ biến Phật giáo thành một giáo lý tự lực hơn, mà 
thật sự là phương cách khác dành cho những người bị vướng vào trong những chiếc 
bẫy của văn hóa hiện đại nhằm tìm kiếm sự khuây khỏa, thoát khỏi stress, lo lắng 
và rối trí. Nếu ngôn từ chúng ta sử dụng cho việc truyền bá Phật pháp có gốc rễ 
của chúng ở nơi nhưng quan tâm và mục đích như vậy, làm cách nào ta có thể đưa 
con tim và tâm trí của những người lắng nghe ta đến 
việc giải thoát ra khỏi luân hồi? Ngay cả những vị thầy vĩ đại nhất cũng không thể truyền tải những gì ngôn ngữ sẽ 
không để cho họ nói.
Bị giáng 
xuống đến tầm mức này, giáo lý chân thực của Đức Phật sẽ bị đánh mất. Điều tệ hại là, 
những thế hệ tương lai sẽ không thể nhận biết những gì đã xảy ra.
Họ sẽ không bao giờ biết rằng ý nghĩa nội tại của giáo pháp đã bị làm cho tan 
chảy.
Cho phép 
tôi đưa ra một vài ví dụ. Tất cả chúng ta 
nói về sự giác ngộ (enlightenment) của Đức Phật, lễ kỷ niệm lần thứ 2.600 mà 
chúng ta cử hành tại cuộc họp này. Nhưng từ 
“enlightenment” có đúng với sự giác ngộ của Đức Phật không? 
Thuật ngữ tiếng Anh “enlightenment” có phụ nghĩa lịch sử mà nó không phù hợp với 
Phật pháp. Nó được liên kết với khoa học và thế giới vật chất, liên kết 
với sự khẳng định rằng tính hợp lý quy ước và năm giác quan có thể truyền đạt 
phạm vi tổng thể của những gì là đúng, và liên kết với thẩm quyền của mỗi cá 
nhân để tuyên bố chân lý của riêng mình. Không có phụ nghĩa 
nào trong các nghĩa này phù hợp với Phật pháp.  Chúng ta có thể làm cho tốt hơn không?
Lại nữa, 
từ sati (S. smṛti, niệm) thì hầu như được dịch là “mindfulness”. Ngày nay khái 
niệm “mindfulness” này thì rất phổ biến. Việc tu tập 
được gọi là mindfulness - được đặt cơ sở nơi việc làm giảm bớt căng thẳng đã 
mang lợi ích cho hàng chục ngàn người qua việc giảng dạy một sự thực hành được 
gọi là “sự chú ý đơn thuần” (bare attention). Đây rõ ràng là một sự phát 
triển tích cực. Tuy nhiên có phải “mindfulness” được hiểu như “bare attention” 
đưa đến trí tuệ (paññā/ prajñā) không, sự hiểu biết khai mở bản chất thật sự của 
các pháp? Khi chúng ta giải quyết quan điểm này, có phải chúng 
ta đang để Phật pháp nói bằng tiếng nói của chính nó không? Hay là chúng 
ta chỉ giữ chặt những chọn lựa được thực hiện mà không có sự hiểu biết chân thật 
và nghiên cứu cẩn thận.
Tôi đã 
chọn hai trường hợp này bởi vì chúng là căn bản, và bởi vì từ ngữ tiếng Anh 
tương đương với thuật ngữ Phật pháp trong mỗi trường hợp được thiết lập quá vững 
chắc. Đó là tôi không chạm đến ngữ vựng triết học phức tạp của 
Abhidharma và những truyền thống luận tạng, nơi sự hiểu biết chính xác và chuyển 
dịch đúng dựa vào những suy xét tinh tế và phức tạp. 
Hãy xem từ “vedanā” (thọ), hầu như luôn được dịch là “feeling”. 
Những sinh viên mà tôi dạy từng gặp khó khăn với thuật ngữ này, bởi vì từ tiếng 
Anh “feeling” có một phạm vi nghĩa rộng hơn vedanā. Để cứu họ ra khỏi sự 
bối rối này, chúng ta phải nên nhìn bằng những đôi mắt sáng rõ vào cách thuật 
ngữ này đã được sử dụng khắp các kinh luận như thế nào. Chúng ta phải nhìn rõ 
vào cách nó được dịch sang những ngôn ngữ Phật pháp khác như Hán ngữ, Tạng ngữ, 
v.v… Sau đó, chúng ta phải tìm hiểu từ tiếng Anh “feeling” và phạm vi ý nghĩa 
của nó, cố gắng làm rõ và nói những giới hạn mà việc hiểu phương Tây về cách tâm 
thực sự đóng chức năng.  Kết luận, tôi 
sẽ hỏi có một sự thay thế nào tốt hơn không, điều đáp ứng mục đích đầy đủ hơn.
Lại thêm 
một vấn đề cũng trong chiều hướng đối nghịch. Mới đây tôi có tham dự một hội 
nghị, ở đó nhiều học giả Tây phương giỏi nhất về Phật giáo đã thảo luận về vấn 
đề đạo đức học Phật giáo. Trong hầu hết mọi cuộc thảo luận, những câu hỏi 
căn bản đã được nêu ra. Có phải những thuật ngữ đạo đức 
(ethics)
và “luân lý” (morality) thực sự chuyên chở được ý nghĩa của thuật ngữ 
“sīla/ śīla” (giới) không? Những thuật ngữ phương Tây như “tự do”  
(freedom)
và “tự do ý chí” (free will) có giúp cho những sinh viên hiện đại học 
Phật pháp hiểu những gì muốn nói là giải thoát khỏi luân hồi  
(saṃsāra) 
và ý muốn đạt đến giác ngộ? Không có ai có câu trả lời cho 
những câu hỏi này. Thậm chí không mấy người hỏi về chúng.  
Nó là một sự nối kết đang thiếu trong việc truyền bá Phật pháp 
vào thế giới hiện đại.
Trong 
nhiều năm qua, tôi là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Ngôn ngữ Phật giáo 
Mangalam (Mangalam Research Center for Buddhist Languages). 
Ở đấy, làm việc với những học giả hàng đầu, chúng tôi đang cố gắng làm một vài 
điều về sự nối kết đang thiếu này. Chúng tôi hy vọng 
tham gia với các vị thầy của tất cả các truyền thống trong công việc này, và 
khuyến khích sự cộng tác, sử dụng công nghệ số của phương Tây để tạo nên tri 
thức cần đến.
Chúng tôi tận tâm tạo nên một nguồn tài liệu trực tuyến có tên gọi là 
Buddhist Translators Workbench, và qua đây chúng tôi hy vọng thực hiện một 
sự đóng góp khiêm tốn đối với những nhu cầu cấp bách mà tôi đã trình bày.
Càng làm 
tôi càng nhận thấy đề án này là rộng lớn và thật sự cấp 
bách. Nghiên cứu ngôn ngữ và lịch sử tư tưởng để làm rõ ý 
nghĩa của giáo pháp không phải là một quan tâm học thuật. 
Những gì chúng tôi làm sẽ giúp định hướng tương lai Phật pháp.  
Nó sẽ giúp quyết định Phật pháp có một tương lai hay không.
Tất cả mọi 
truyền thống Phật pháp đồng ý rằng ngôn ngữ không bao giờ có thể khai mở chân lý 
cao nhất. 
Nếu điều đó là như vậy thì vấn đề ngôn ngữ chúng ta sử dụng có thật sự quan 
trọng không? Vâng… nó là quan trọng. Nó hết sức quan trọng. Chân lý của Phật 
pháp vượt qua ngôn ngữ, nhưng ngôn ngữ chỉ ra chân lý, giống như một tấm bản đồ 
chỉ hướng đúng để đi. Ngôn ngữ là tiếng nói mà thông 
qua đó chân lý mở ra, mời gọi chúng ta thực hiện một cuộc hành trình vào những 
lĩnh vực không được biết. Nếu ngôn ngữ của chúng ta dẫn chúng ta đi lạc 
đường, nếu chúng chỉ hướng sai hay đánh lừa chúng ta về mục đích, cuộc hành 
trình sẽ kết thúc ở nơi sự thất vọng hay sự lừa gạt.
Để tìm một 
tiếng Anh có thể chuyển tải được Phật pháp, chúng ta cần những học giả giỏi nhất 
từ phương Tây, những học giả được đào tạo về ngôn ngữ đúng cách mà họ đang trở 
nên quý hiếm ngay cả ở nơi những trường đại học Tây phương có uy tín nhất.  
Chúng ta cũng sẽ cần sự giúp đỡ của những vị thầy giỏi Phật pháp 
từ tất cả mọi truyền thống, những vị đạo sư có thể rót trí tuệ và hiểu biết của 
họ vào trong những chiếc bình ngôn ngữ nói và viết.
Đây là nơi 
sự đối thoại phải bắt đầu. Đây là cách Phật pháp sẽ tìm lấy 
tiếng nói của nó: với sự quan tâm, nhiệm vụ và tính chính xác. Nếu tiến trình 
này thành công thực sự, tiếng Anh sẽ trở thành một ngôn ngữ Phật pháp, và Phật 
pháp, được tái tạo để nói với thế giới hiện đại, sẽ ảnh hưởng ngôn ngữ trong đời 
sống hàng ngày, định hướng sự nhận thức. Phật pháp sẽ thêm một 
lần nữa làm công việc chuyển đổi kỳ diệu của mình. Như ở trong những thế 
kỷ qua, người ta sẽ hiểu bằng tất cả con tim rằng giải 
thoát khổ đau là có thể. Họ sẽ biết điều này bởi ngôn ngữ mà 
họ sử dụng, khái niệm mà họ học để suy nghĩ, thực tại mà từ ngữ lập nên. Nếu điều này xảy ra, giáo pháp của Đức Phật sẽ thật sự tìm ra tiếng 
nói của nó cho thế giới hiện đại, và chúng ta có thể hy vọng rằng Phật pháp sẽ 
trường tồn.  
Nguồn: 
www.mangalamresearch.org.
 Jack Petranker(*) - Nguyên Hiệp 
dịch
(*) Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu 
Ngôn ngữ Phật giáo Mangalam