Sự thống nhất giữa hoàng đế, thi nhân, và thiền gia trong một nhân cách - Trần Nhân Tông
o
GS. Nguyễn Huệ Chi – PGS. Trần Thị Băng
Thanh
Trong mười thế kỷ phong
kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một ông vua giỏi và tài hoa.
Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” thời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng
hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và
không kém hào hùng.
Di ảnh Trần Nhân Tông
lưu giữ đến nay chỉ còn đôi ba bức họa và tôn tượng. Với Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ, lần đầu tiên người xem được
diện kiến ảnh tượng Phật Hoàng (ngồi cáng) an nhiên mà sinh động xuống núi khởi
sự giáo hóa chúng sinh
Nhân Tông sinh năm Mậu
Ngọ (1258), lên ngôi năm Mậu Dần (1278), mới tròn hai mươi tuổi. Nhà Trần lúc này đã bước vào thời kỳ ổn định, đất nước hoà bình,
nông nghiệp phát triển, luật pháp thi cử học hành đều đã vào nề nếp...
Một thời kỳ thịnh trị bắt đầu. Song khó khăn đối với ông vua trẻ lại là
cái áp lực dồn tới từ phương Bắc. Nhà Nguyên đã diệt xong nước Tống, bắt đầu
tính đến Việt Nam, thường xuyên gây sức ép và cuối cùng là hai cuộc xâm lăng năm
1285 và 1287 - 1288 ào ạt, dữ dội hiếm thấy. Trong vòng bốn năm phải đương đầu
với hai trận tấn công của “giặc mạnh” có đủ quân thuỷ, quân bộ, quân kỵ và mỗi
lần con số đều không dưới 50 vạn không phải là việc dễ, trong khi phần lớn các
nước trên cựu lục địa đều đã bị khuất phục nhanh chóng dưới vó ngựa đạo quân
Mông Cổ cực kỳ thiện chiến và hung hãn này. Song Trần Nhân Tông đã cố kết được
lòng dân, phát huy được năng lực của các tướng, động viên được tài trí của cả
nước đánh thắng giặc, giữ vững cương thổ, bảo vệ toàn vẹn nền độc lập cho nước
nhà. Vào tháng Tám năm Nhâm Ngọ (1282), khi được tin 50 vạn quân Toa Đô lấy cớ
mượn đường đi đánh Chiêm Thành sắp kéo vào bờ cõi, Trần Nhân Tông chủ động “ngự
ra Bình Than” tổ chức cuộc “họp vương hầu và trăm quan bàn kế sách công thủ và
chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu” (1).
Không chỉ thế. Hai năm sau nữa, vào tháng Chạp năm Giáp Thân, khi được
tin Thoát Hoan sắp đưa đạo quân chủ lực hùng mạnh tiến xuống Đại Việt, giữa giờ
phút khẩn trương căng thẳng, lại có tiếp một cuộc họp mặt “phụ lão trong nước” ở
điện Diên Hồng, “ban yến và hỏi kế đánh giặc”, lần này người đứng ra điều khiển
là Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông, đã đủ sự tín nhiệm về tuổi tác để đối diện
với người tuổi tác, nhưng chắc chắn ông vua trẻ vẫn ở phía sau. Có thể nói đây là hình thức hội họp đầu tiên trong lịch sử chế độ
quân chủ nước ta nhằm lấy ý kiến rộng rãi về một vấn đề trọng đại của đất nước,
vốn chưa có tiền lệ - mà hình như lịch sử về sau cũng không lặp lại. Quả
là hai vua Trần đã có sáng kiến “không tiền tuyệt hậu”, trải lòng mình với trăm
họ, khích động được tình cảm muôn dân, làm cho niềm cảm khái trong mọi tầng lớp
vương hầu và dân chúng nhanh chóng dâng lên và quy tụ về một mối, từ hành vi bóp
nát quả cam trong tay Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản khi không được bàn việc quân ở
Bình Than vì tuổi còn quá trẻ, đến việc “các vị phụ lão có mặt [ở thềm điện Diên
Hồng, trong cuộc họp sau] đều nhất loạt nói “đánh”, muôn người cùng hô một tiếng,
như bật ra từ một cửa miệng”(2). Mầm
mống dân chủ của xã hội nhà Trần đã khởi nguồn từ đấy mà ra chăng? Riêng
Trần Nhân Tông, trong kháng chiến chống ngoại xâm, đáng được coi là một trong
những anh hùng tiêu biểu - anh hùng mà không rọi hào quang ra ngoài. Công lao của vị tướng lĩnh kiệt xuất gánh vác trọng trách quân sự
hàng đầu là Trần Quốc Tuấn không thể phủ nhận. Vai trò cố vấn tối cao của Thượng hoàng Trần Thánh Tông cũng khó
lòng coi nhẹ.
Nhưng ở vị trí một trong hai người nắm giữ quyền lực bậc nhất, lại trẻ trung
xông xáo, Trần Nhân Tông mới chính là linh hồn của xã tắc giữa giờ phút cheo
leo bên bờ vực thẳm. Bằng phong thái ung dung tự tại trong tầm nhìn và
trong phối hợp chỉ đạo nội chính và quân sự, ông đã đem lại cho quân dân nhà
Trần niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng.
Những năm sau đó, bước vào công cuộc xây dựng lại
đất nước đã bị tàn phá, Nhân Tông một mặt lo tổng kết việc đánh giặc thưởng
công, ghi Trung hưng thực lục, một mặt lo tiếp tục đối phó với cuộc tấn
công phục thù của địch, vận dụng một cách hoàn thiện cả hai nguyên tắc mềm dẻo
và cứng rắn trong nhiều lần vất vả giải quyết các yêu sách ngang ngược của sứ bộ
nhà Nguyên, đồng thời lo làm sao cho nước mạnh dân giàu. Hơn mười bốn năm làm
vua của ông (1278 - 1293), cũng là suốt cả thời trai trẻ, Nhân Tông đã dành hầu
hết tâm sức cho chỉ hai mục tiêu liên thông chặt chẽ với nhau: giang sơn tông
miếu vững bền và nhân tâm an lạc. Thông thường, khi một giai đoạn
lịch sử đã đóng lại, đời sau dễ phát hiện những ưu khuyết điểm của người xưa, dễ
dàng chỉ ra những việc nên làm và không nên làm... Song, nếu nghĩ rằng Trần Nhân
Tông thuở đó chỉ mới trên dưới ba mươi tuổi, đã phải gánh vác trách nhiệm quyết
định những việc lớn lao liên quan đến chuyện mất còn của cả dân tộc thì mới thấy
hết bản lĩnh và tầm vóc của ông. Nhất là khi đối thủ mà ông phải đương đầu chẳng
phải một kẻ địch hạng xoàng! Hốt Tất Liệt vốn là một tướng cầm quân lão luyện,
giặc Thát lại là một đội quân ngang dọc vẫy vùng từng bách chiến bách thắng khắp
từ Âu sang Á. Và sau khi đã làm chủ mảnh đất Trung Hoa, “chúa tể Đại Nguyên” còn
tập hợp được cả một đội ngũ đông đảo văn thần người Hán, nhiều người từng là nhà
ngoại giao, chính khách sừng sỏ, “tận trung” bày mưu tính kế. Có xét đến những
hoàn cảnh cụ thể như vậy mới hiểu hết được tính cách mạnh của Trần
Nhân Tông, bộc lộ ra ở cả tư tưởng và việc ông làm, trong nhiều thời điểm có ý
nghĩa bước ngoặt lịch sử, rất cần sự quyết đoán, cái nhìn sáng suốt ở một người
như ông.
Vào khoảng cuối 1284 đầu
1285 sau khi cuộc chiến lần thứ nhất (tính trong cả ba cuộc là lần thứ hai) diễn
ra chỉ mới chừng mươi ngày, mặt trận Khâu Cấp - Nội Bàng đã tan vỡ và đại quân
Trần phải lùi về Vạn Kiếp. Trên con thuyền chạy ra Hải Đông tránh mũi dùi tấn công của giặc,
giữa lúc quần thần không khỏi hoang mang, Trần Nhân Tông tuy cũng rất lo lắng
nhưng khi biết tin các cánh quân của Trần Quốc Tuấn vừa kịp nhóm họp lại, thanh
thế đang dần khởi sắc, ông đã viết vào đuôi thuyền hai câu:
Cối Kê cựu sự quân tu ký,
Hoan, Diễn do tồn thập vạn binh.
(Cối Kê việc cũ ngươi
nên nhớ,
Hoan Diễn còn kia mười vạn quân) (3)
Hai câu thơ, có lẽ chỉ
nhằm trấn an những bề tôi nào đó cùng đi trên thuyền trong cuộc rút lui khẩn
cấp, tuy vậy đã lan truyền rất nhanh như một thông điệp
về tinh thần tự chủ kỳ lạ của người cột trụ Triều đình. Một nghìn quân còn lại
trên núi Cối Kê của Việt Vương Câu Tiễn ở thời Chiến quốc, ngỡ bị quân Ngô dồn
đến chân tường, vậy mà về sau đã lại dấy lên, đánh bại đội quân hùng mạnh của
nước Ngô. Gợi một điển tích cũ để bày tỏ niềm tin vững chắc của mình vào triển
vọng của đất nước lúc bấy giờ, trong tình thế nghìn cân treo sợi tóc, đồng thời
Trần Nhân Tông cũng nhắc người nghe đừng quên mất thực tế là vùng hậu phương
Thanh - Nghệ lực lượng hiện vẫn chưa suy suyển. Nhưng còn quan trọng hơn là cái
dung lượng triết lý mà câu nói của ông chứa đựng. Với hình thức thi ca chứ không
phải chiếu lệnh, Nhân Tông như muốn truyền vào người tiếp nhận cùng lúc nguồn
cảm hứng lãng mạn của một thi nhân và con mắt nhìn động của một triết
nhân, để họ nhận rõ xu thế chuyển hoá bên trong của cái hiện thực rối bời trước
mắt. Một sự kiện Cối Kê sẽ được lặp lại trong cuộc chiến đấu tưởng như rất bất
lợi nhưng lại đang diễn ra trên mảnh đất mà chính dân Nam mới đích thực là người
chủ còn kẻ địch chỉ là “bất tốc chi khách” - vị khách không mời mà đến, điều ấy
cả ông và Trần Quốc Tuấn đều đã lường thấy. Có điều, nếu Trần Quốc Tuấn bày tỏ
sự thấy bằng cái cách của con nhà tướng, đem đầu ra đánh cược với Trần Thánh
Tông, thì Trần Nhân Tông lại thể hiện nó bằng tầm bao quát tinh xác tương quan
lực lượng trên khắp mọi mặt trận khi đó, cả trước mặt mình và khuất xa sau lưng
mình. Chưa nói đến đức bình tĩnh hiếm có, chỉ nội dung của lời thông báo
cũng đủ chứng tỏ năng lực một con người lãnh đạo kỳ tài.
Cũng với niềm xác tín phi
thường như thế ta lại thấy buột thốt ra trong hai câu thơ của Trần Nhân Tông vào
ngày khải hoàn, khi ông đến bái yết lăng tẩm ông nội, giữa lúc dấu tích chiến tranh để lại còn
ngổn ngang. Hai câu thơ như một âm hưởng vĩ
thanh hoà điệu với hai câu thơ trên con thuyền chạy giặc ngày nào mà sự đối lập
động
và tĩnh ở đây tưởng như ngược với trước, kỳ thực là hoàn toàn thống nhất:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
(Xã tắc hai phen bon ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng) (4)
Rõ ràng, cái động nhất thời do kẻ địch gây
ra dù có ghê gớm đến đâu cũng đã bị lịch sử bác bỏ. Thực tế đất nước đã vận
động đúng như suy đoán tài tình của nhà vua lúc chiến tranh vừa khởi sự để
trở lại thế tĩnh cân bằng.
Phải nói, niềm xác tín
lịch sử của Trần Nhân Tông có được chính là xuất phát từ cái nhìn hết sức nhân
bản đối với người và việc trong thời đại ông. Ông tin ở phẩm chất hướng thiện của mọi con người kinh qua thử
thách thực tiễn, hay đúng hơn, ông không hề xem xét con người một cách đơn nhất
hoá. Trong hội nghị tướng lĩnh ở Bình Than năm 1282 mà ông đích thân chủ trì như
đã nói, khi vừa bắt gặp chiếc thuyền bán than của Trần Khánh Dư - một tướng tài
nhưng cũng lắm tật - lướt qua bên đoàn thuyền chiến, Trần Nhân Tông đã có ngay
lệnh chỉ tha tội cho Dư, gọi Dư đến và cho được dự vào hàng tướng soái cầm
quân(5). Thái độ bao dung của vị Hoàng đế thực
không uổng phí: rồi đây Phó tướng Trần Khánh Dư sẽ lập công xuất sắc ở nhiều
chiến trận. Thái độ bao dung ấy còn gây được một tâm lý thoáng đạt cởi mở, giúp
mọi chi phái quý tộc nhà Trần vốn không phải không có những chia rẽ ngấm ngầm,
xích lại gần nhau, để toàn tâm toàn ý sống mái với giặc. Trần Nhân Tông cũng đã
không hề băn khoăn hiềm nghi Trần Quốc Tuấn khi giao phó cho Quốc Tuấn trọng
trách Quốc công tiết chế thống lĩnh toàn bộ quân đội, tuy ông thừa biết Quốc
Tuấn là con trai người anh ruột ông nội mình, tức là dòng trưởng mà lại không
được nắm ngôi báu, còn bị “xử ép” trong nhiều chuyện, nên từng khởi loạn. Lòng
tin của ông ở đây một lần nữa lại được đáp đền xứng đáng: Quốc Tuấn đã biết tự
vượt lên mình, dâng hiến tài năng quân sự thiên phú cho đất nước, đẩy lùi mọi
chiến dịch vây ráp ác liệt của quân Nguyên, cuối cùng hất chúng trở lại phương
Bắc một cách nhẹ nhàng. Sự trung hậu được đáp lại bằng sự trung hậu, thậm chí
còn hơn cả sự trung hậu khi Quốc Tuấn trả lời ông thoải mái trước khí thế hung
hăng của kẻ địch kéo cả đoàn thuyền chiến cùng 70 vạn thạch lương sang phục thù
lần thứ ba: “Năm nay đánh giặc nhàn”(6).
Đánh giặc nhàn không vì quân giặc đã giảm nhuệ khí mà vì sự
gắn bó giữa nhân chủ và bề tôi đã đạt đến độ thâm sâu nhất, hoàn toàn thấu rõ
bụng nhau. Cũng vậy, sau ngày khải hoàn về Thăng Long (1288), bắt được
một hòm thư biểu của không ít quan lại từng vì nao núng mà xin hàng Thoát Hoan,
biết tình thế muôn phần gay go của những ngày nước sôi lửa bỏng khiến có lúc xa
giá Triều đình cũng phải mặc ai nấy chạy; lại cũng thừa hiểu tâm lý con người
thường tục ai mà chẳng có chỗ tham sống sợ chết; nên sau khi đã định công
khen thưởng(7), tuân lệnh Thượng hoàng Trần Thánh Tông,
Trần Nhân Tông liền cho đốt ngay hòm biểu kẻ thù bỏ lại nhằm “giữ yên lòng
người”. Với hành vi “xé bỏ lý lịch” kiểu đó, dám chắc đây là một thời đại nhân
hậu vượt lên mọi luật lệ khuôn phép, mà tính đến tận hôm nay có dễ cũng là một
thời đại có một không hai.
Chưa phải đã hết. Chính trong những tháng
ngày bôn ba đánh giặc, Trần Nhân Tông còn nhận chân ra một sự thực: chỉ ở những
đám người “chân đất” mới thực giàu phẩm chất trung thành tận tuỵ mà không chút
tính toán so đo. Hộ vệ ông đến cùng chính là “bọn ấy” và cũng chính ông được
“bọn ấy” dâng cơm hẩm trên đường rút chạy phải nhịn đói từ sáng đến chiều(8).
Nhận thức về cái cao quý của người nghèo hèn
đã in sâu vào trực giác của ông nên sau này, trở lại ngai vàng, hễ mỗi lần gặp
gia đồng của các vương hầu ông đều ân cần thăm hỏi, “răn bảo vệ sĩ không được
thét đuổi họ”(9); khi trị tội những kẻ đã cam tâm làm tay sai cho
giặc, ông chủ trương “chỉ lính tráng và dân thường là được miễn tội chết”(10);
ông cũng đem những điều chiêm nghiệm đã đúc thành chân lý dụ bảo bề tôi: “Ngày
thường thì có thị vệ tả hữu, nhưng khi quốc gia hoạn nạn chỉ có bọn chúng là có
mặt”(11). Đấy hẳn là một nhận thức cơ bản trong ý thức nhà
vua, có giá trị cao hơn mọi tư tưởng cao siêu nào hết, làm nên bệ đỡ cho cả một
thời đại, nói như Trần Quốc Tuấn: “vua tôi chung sức
đồng lòng”.
Đối với phần cuối cuộc đời ông vua anh hùng, kể
từ sau năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con lên giữ chức Thượng hoàng,
rồi vài năm sau ông chính thức xuất gia, trở thành vị tổ thứ nhất dòng Thiền
Trúc Lâm, vào tu hạnh đầu đà ở Yên Tử cho đến khi viên tịch năm Mậu Thân (1308),
đã có nhiều cách lý giải khác nhau của hậu thế. Ngô Sĩ Liên
(thế kỷ XV) thì cho là ông đã quá “để tâm rong chơi nơi kinh Phật, tuy nói là
siêu thoát, song không phải là đạo Trung dung của thánh nhân” (12).
Tăng Hải Hoà tức Nguyễn Đăng Sở (thế kỷ XVIII) lại liên tưởng xa hơn, rằng thực
chất Nhân Tông tìm lên Yên Tử là để chọn một vọng gác tiền tiêu bao quát vùng
Đông Bắc. Bởi, mặc dầu: “trong nước vô sự nhưng ở phía Bắc vẫn có nước láng
giềng mạnh mẽ, chưa được an tâm... Cho nên nhằm được
ngọn Yên Tử là núi cao nhất, phía Đông nhìn về Yên Quảng, phía Bắc liếc sang hai
tỉnh Lạng, dựng lên ngôi chùa, thời thường dạo chơi để xem động tĩnh, cốt để
ngừa cái mối lo nước ngoài xâm phạm. Thật là một vị Vô lượng lực Đại thế chí Bồ
Tát” (Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh) (13)
.
Thoạt nhìn, cả hai lời
giải đáp trái ngược xem ra đều có những mặt hữu lý. Tuy nhiên, xét từ phương pháp tư tưởng, cả Ngô Sĩ Liên và Nguyễn
Đăng Sở lại cùng chung một nhầm lẫn là chỉ thuần dựa trên những hệ quy chiếu chủ
quan, không đếm xỉa gì đến tiến trình tư tưởng nội tại của vị Hoàng đế nhà Trần.
Việc Trần Nhân Tông xuất gia vốn là sở nguyện của cả đời ông, phát lộ ngay từ
còn trẻ. Từ thuở chưa lên ngôi, có thời gian ông đã quá mải mê với việc giữ gìn
giới luật đến nỗi mặt võ mình gầy, Thánh Tông thấy vậy phải nhắc: “Trẫm nay đã
già rồi, chỉ trông mong vào một mình con. Nếu con như thế thì cơ nghiệp lớn của
tổ tông sẽ ra sao?” (14). Nhờ đấy ông mới hiểu ra phận sự
của người con trưởng dòng dõi hoàng gia là “nối nghiệp báu”, phải đặt việc ấy
lên trên, và bắt đầu chuyên tâm vào “trị quốc”. Cũng như mọi người con ưu tú của
Đại Việt thông hiểu lịch sử, ông không bao giờ quên cảnh giác với mưu ma chước
quỷ của “thiên triều” - trừ những kẻ bụng dạ u tối “tài nông đức mỏng” ngẫu
nhiên rơi vào chiếc “ghế cầm cân nảy mực”, thời nào cũng vậy - nhưng thiết tưởng
ông cần gì làm cái chuyện khoác áo cà sa vào lúc cuối đời để giấu giếm những
hoạt động “tình báo” trên đất mình. Cách giải thích “chính trị
hoá” của Nguyễn Đăng Sở vì thế khó có thể chấp nhận.
Song Trần Nhân Tông đi tu phải chăng là đi tìm siêu thoát? Không! Nếu chỉ
tìm đường siêu thoát cớ sao đã đi tu ông còn triệu tập quần thần về Thiên Trường
định bàn chuyện phế lập khi bắt gặp Trần Anh Tông say rượu, bỏ bê chính sự
(1299)? Hoặc giả, sau khi vân du nhiều vùng miền trong nước, ông còn sang tận
Chiêm Thành trong chín tháng trời, xem xét tình hình nước Chiêm và bàn chuyện
tác hợp Huyền Trân Công chúa với vua Chiêm Chế Mân (1301)? v.v
và v.v.
“Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ” - Tranh của Trần
Giám Như, hoạ sư người Việt thuộc dòng dõi họ Trần,
sống lưu vong ở Trung Nguyên thế kỷ XIV, vẽ năm 1363. Nguồn: Tuổi Trẻ
Chỉ có thể làm sáng tỏ những mắc mớ như trên khi
ta đặt Trần Nhân Tông vào trong cùng chuỗi cả một hệ phái Thiền mang nặng cảm
thức nhập thế của Việt Nam. Trước Trần Nhân Tông đến hơn 300 năm, Thiền sư Pháp
Thuận đã từng khuyên vua Lê Đại Hành: “Vô vi trên điện gác - Chốn chốn
tắt đao binh”. Vô vi, trong nghĩa từ nguyên của thuật ngữ, không phải
là không làm gì mà trái lại, làm bất cứ việc gì thuận theo quy luật tự nhiên,
hay nói như vua Lý Nhân Tông khuyên Thiền sư Mãn Giác “Không việc gì không làm,
chẳng những đắc lực về Thiền định mà cũng có công giúp đỡ nhà nước” (Thiền
uyển tập anh). Kế thừa người đi trước, Trần Nhân Tông đã đề xuất phương châm
“cư trần lạc đạo” - ở giữa cõi trần mà vui đạo, cũng là một khái niệm vô vi
được vận dụng cụ thể hoá trong bối cảnh lịch sử phức tạp và vĩ đại buổi thịnh
Trần: “Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên - Cơ tắc xan hề khốn tắc miên - Gia
trung hữu bảo hưu tầm mịch - Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền” / Cõi trần vui
đạo hãy tuỳ duyên - Đói cứ ăn no mệt ngủ yên - Báu sẵn trong nhà thôi khỏi kiếm
- Vô tâm trước cảnh hỏi gì Thiền (Cư trần lạc đạo phú) (15).
Hãy để ý đến khái niệm “tuỳ duyên” trong bài thơ kết thúc mười hội của phú Cư
trần lạc đạo. Tuỳ duyên là người không khăng khăng giữ lấy một chủ
kiến bất chấp hoàn cảnh sống, trái lại biết nắm lấy cơ duyên nó đưa đẩy mình đến
những tình thế mình không thể cưỡng, và biết biến cái bị động thành cái chủ động
để vẫn giữ được tự thể của mình mà vẫn sống được hết mình. Đó chính là
“tuỳ duyên chân như”, là sự chuyển hoá vi
diệu giữa bản thể trường tồn và vạn pháp(16). Nhìn ở một góc
độ nào đấy thì việc Trần Nhân Tông đã bỏ hai phần ba cuộc đời giữ trọng trách
“vỗ yên dân chúng” chính là thuận theo lẽ “tuỳ duyên” rất biện chứng của nhà
Phật. Cũng như ông nội và thân phụ, trong tư cách một con người lịch sử ông ý
thức được quy luật lịch sử và trách nhiệm trước lịch sử của cá nhân mình.
Ông đang thực hiện vô vi ngay trên ngai vàng. Khi ông rời Triều đình lên Yên Tử,
con người nhập thế tất nhiên vẫn còn (chứ làm sao triệt tiêu ngay được!). Tuy
vậy, lại cũng bởi là người nắm vững hơn ai hết quy luật sinh lão bệnh tử
của tự nhiên, Trần Nhân Tông đã biết cách chủ động truyền trọng trách thế sự lại
cho Hoàng tử trưởng là Anh Tông kế tục, và mục tiêu vô vi giờ đây là
thung dung đi tìm niềm vui của sự “giác ngộ”, cũng là tìm lời giải đáp cho những
câu hỏi lớn: Con người là ai? Từ đâu đến và cuối cùng đi đâu?
Thế giới có hay không? Thật hay ảo?,...
Những câu hỏi ấy loài người đặt ra từ rất sớm, và cũng từ rất
sớm con người đã luôn cố gắng tìm câu trả lời. Giống như Thích Ca Mâu Ni
tìm ra đáp án thế giới gồm trong “ngũ uẩn”, kể cả tâm cả vật - sắc,
thụ, tưởng,
hành, thức, chúng ta không loại trừ ở Trần Nhân Tông - giờ đây đã
mang pháp danh Trúc Lâm Đại Đầu đà - niềm khát khao được toả sáng trí tuệ theo
cách riêng của ông trước những câu hỏi loại này, để từ con người vô minh của
nhân thế (Chuộng công danh, lồng nhân ngã, thực ấy phàm ngu - Cư trần
lạc đạo phú) thật sự trở thành một người tự do, không còn bị thế giới
ngoại vật hữu hình câu thúc:
Hoàng đế Trần anh Tông
cung nghinh Thượng hoàng Trần Nhân Tông xuống núi.
Trích đoạn “Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn đồ”. Nguồn:
trannhantong.net
Thuỳ phọc cánh tương cầu
giải thoát?
Bất phàm, hà tất mịch thần tiên.
Viên nhàn, mã quyện, nhân ưng lão,
Y cựu, vân trang nhất tháp thiền.
Thị phi niêm trục triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tuỳ dạ vũ
nhàn.
Hoa tận vũ tình, sơn tịch tịch,
Nhất thanh đề điểu hựu
xuân tàn.
(Sơn phòng mạn hứng)
(Ai trói buộc chi tìm
giải thoát?
Khác phàm đâu phải kiếm
thần tiên.
Vượn nhàn ngựa mỏi, ta già lão,
Như trước,
am mây chốn toạ thiền.
Phải trái rụng theo
hoa buổi sớm,
Lợi danh lạnh với trận
mưa đêm.
Hoa tàn, mưa tạnh, non im vắng,
Một tiếng chim kêu, xuân cỗi thêm) (17)
nhờ đó ít nhiều ông xây đắp cho Thiền phái Trúc Lâm một cơ sở triết
thuyết nó là nền tảng vũ trụ quan và nhân sinh quan của xã hội thời thịnh Trần.
Kiên trì gầy dựng một hệ phái Phật giáo thống
nhất trong cả nước, cả về mặt tổ chức, giáo lý, cách thức đào tạo, truyền nối,
lại chủ trương tách sinh hoạt tôn giáo ra khỏi sinh hoạt chính trị, mở cho Phật
giáo một không gian tâm linh khoáng đãng, tự do ở nơi rừng núi, không bị quyền
lực nhà nước chi phối, lấy cả một vùng Yên Sinh - Yên Tử làm nơi quy tụ... Về phương diện này nữa, gương mặt Trần Nhân Tông cũng phản ánh tầm
vóc của một thời đại lớn trong lịch sử.
*
* *
Theo sử sách còn ghi được, Trần nhân Tông là tác
giả các tập thơ sau đây: Trần Nhân Tông thi tập, Đại Hương Hải ấn thi
tập, Tăng già toái sự, Thạch thất mỵ ngữ.
Tuy vậy, sau bao nhiêu phen dâu bể của chiến tranh, loạn lạc, số tác phẩm trên
đều đã mất. Hiện thơ ông chỉ còn giữ được 31 bài, hai cặp câu thơ lẻ, một bài
minh và một bài tán, chép trong các tuyển tập. So với nhiều nhà thơ khác thời Lý - Trần, số lượng ấy kể cũng đã
không phải là nhỏ. Do điều kiện sống phải phân thân thành hai chủ thể:
một con người nhập cuộc và một con người xuất thế, thơ Trần Nhân Tông cũng mang
hai loại cảm hứng khác nhau: cảm hứng thế tục và cảm hứng Thiền. Tuy nhiên, do
quãng đời phải chấp nhận “sống giữa cõi trần mà vui đạo” trong ông khá dài, nên
ở nhiều bài thơ, cảm hứng Thiền và cảm hứng thế tục vẫn thường xoắn quyện với
nhau, khó lòng tách bạch.
Thời gian xen giữa mấy
cuộc chiến tranh và cả sau chiến tranh, Trần Nhân Tông trong vai nhân chủ phải
gánh vác trọng trách triều chính rất nặng. Ông thường xuyên tiếp sứ Nguyên mà như ta biết đấy là một công
việc hết sức vất vả, phải huy động tài năng của những bậc trưởng thượng bấy giờ
cùng giúp sức để đối phó với đám chính khách sừng sỏ từ bên kia phái sang, được
lệnh “thiên triều” luôn luôn gây khó dễ, đòi hỏi từ nghi lễ này đến nghi lễ kia,
hoạch sách hết khoản này sang khoản khác, như Trần Quốc Tuấn tố cáo trong Dụ
chư tỳ tướng hịch văn: “Lén nhìn sứ nguỵ đi lại nghênh ngang ngoài đường. Uốn tấc lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình; đem tấm thân dê chó mà
khinh rẻ tể phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng
tham không cùng; khoác hiệu Vân Nam vương mà hạch sách bạc vàng, để vét kiệt của
kho có hạn”(18). Nhưng lạ thay, thơ tiếp sứ và
tiễn sứ của các văn nhân thời Trần đều trong sáng, gửi gắm những ý tình sâu kín
và thái độ nhũn nhặn, như thơ Trần Quang Khải. Riêng Nhân Tông, ông có đến 5 bài
thơ tặng và tiễn sứ, giọng điệu thuỷ chung rất mực ân
cần. Cũng có một đôi câu có chút khách sáo, nhưng đó dường như là ước lệ không
tránh được của loại thơ ngoại giao mà chẳng cứ Trần Nhân Tông đều phải dùng,
ngoài ra bài nào cũng mang hàm nghĩa sáng rõ, bộc lộ tình cảm đôn hậu của tác
giả:
Thiều tinh lưỡng điểm chiếu thiên Nam,
Quang dẫn thai
triều dạ nhiễu tam.
Thượng quốc ân thâm tình dị cảm,
Tiểu bang tục bạc lễ đa tàm.
(Tống Bắc sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng)
(Trời Nam sao sứ chiếu
hai ngôi,
Dẫn lối ba vòng, đêm sáng
soi.
Bên ấy, ơn sâu tình cảm
động,
Nơi đây lễ bạc, thẹn sơ
sài) (19)
Điều đáng nói là sự đôn hậu chân tình khác với loại thơ tâng bốc. Không hề thấy một lời
nào tỏ ra Trần Nhân Tông khiếp uy “thiên triều”. Năm 1291, Thượng thư
Trương Hiển Khanh tức Trương Lập Đạo, sang sứ Việt Nam, vẫn với mục đích cố hữu
như các vị sứ trước: dụ vua Trần sang chầu, mà nếu bị từ khước, ngay năm sau Hốt
Tất Liệt sẽ động binh lần thứ tư. Nhân Tông và triều đình Trần cố nhiên phải tìm
cách “hoá giải” cơn giận của vị chúa tể nước lớn để sự khước từ là một nguyên
tắc bất biến không gây đổ vỡ. Trương Hiển Khanh được tiếp đón nồng hậu trong dịp
ấy, được chứng kiến cái Tết mồng ba tháng Ba ở Thăng Long và được Nhân Tông tặng
một mâm bánh kèm theo một bài thơ ý nhị:
Giá chi vũ bãi thí xuân sam,
Huống trị kim triêu tam nguyệt tam.
Hồng ngọc đôi bàn xuân thái bính,
Tòng lai phong tục cựu An Nam.
(Quỹ Trương Hiển Khanh
xuân bính)
(Múa giá chi rồi, thử
áo xuân,
Hôm nay hàn thực, buổi
thanh thần.
Bánh rau, xuân sắc đầy
mâm ngọc,
Nước Việt tục này
theo cổ nhân) (20)
Lời thơ rất khiêm nhường nhưng không một câu chữ nhún nhường. Cả bài là một bức tranh
rực rỡ về lễ hội, có điệu múa cổ dân gian đi liền với việc người dân nô nức mặc
áo mới, có mâm cỗ đầy nhiều màu sắc thanh đạm mà tươi tắn. Câu kết như
một lời nhắn gửi lễ độ đến vị khách: phong tục nước chúng tôi vốn có từ xưa như
thế đấy. Trần Nhân Tông không hề đưa ra một lời bình nào nhưng bằng sự sắp xếp
hình ảnh cuốn theo nhau trong một hoạt cảnh sinh sắc,
đã làm hé lộ cả một chiều sâu văn hoá. Quả nhiên, Trương Hiển
Khanh ít nhiều bị thuyết phục. An Nam chí lược quyển XVII, chép
được một bài thơ ông ta làm hoạ đáp nhà vua trong dịp này: “An Nam tuy tiểu
văn chương
tại - Vị khả khinh đàm tỉnh để oa” (Nước An
Nam tuy nhỏ nhưng có văn chương - Chưa thể nói một cách nông cạn họ là ếch ngồi
đáy giếng) (21)
Trần Nhân Tông là người đã đi hầu khắp đất nước. Trước khi đến với Yên Tử ông đã sống
cuộc đời thật sự sôi động và vương giả. Trong thơ ông còn dấu ấn của những chặng đường đời ấy. Có
những vần thơ hào hùng về những ngày ruổi rong đánh giặc, cũng có những vần thơ
“chinh Tây” ngay sau khi vừa đuổi xong giặc Bắc, không đừng được phải ra đi mà
lòng cứ trăn trở về hiệu quả đích thực của hành động chinh phạt do mình chủ
xướng, bất giác thấy rầu rĩ, nhớ về nơi cung điện, đâm ra quý cuộc sống nhàn
nhã, không bị luẩn quẩn vì chiến tranh. Âm hưởng bài thơ dõng dạc ở phần đầu
nhưng phần cuối lại chùng xuống, từ hướng ngoại chuyển sang hướng nội:
Cẩm phàm khinh sấn lãng hoa khai,
Bồng để yêm yêm thủ bất đài.
Tam giáp mộ vân vô nhạn đáo,
Cửu Than minh nguyệt hữu long lai.
Thê lương hành sắc thiêm cung mộng,
Liêu loạn nhàn sầu đáo tửu bôi.
Hán Vũ phiên chiêu cùng độc báng,
Nam
nhi cấp cấp nhược vi tai.
(Tây chinh đạo trung)
(Buồm gấm vèo bay hoa
sóng tung,
Đầu nghe mỏi mệt dưới mui bồng.
Mây chiều Tam Giáp trông:
không nhạn,
Trăng sáng Cửu
Than thấy: có rồng.
Quạnh quẽ dặm xa mơ điện
cũ
Vấn vương sầu lắng thấm ly nồng.
Hán hoàng mang tiếng say
chinh chiến,
Lật đật nam
nhi có uổng công?) (22)
Thơ Trần Nhân Tông ngôn từ giản dị và súc tích, đặc biệt cách tạo dựng hình ảnh
làm toát lên cái không khí của cảnh tượng khiến mình cảm xúc thì ít nhà thơ nào
có thể sánh. Về thăm lăng
tổ phụ ở Long Hưng, cái vẻ tôn nghiêm của đế miếu gây phấn khích nơi ông. Ông
liền vẽ lên bằng vài nét: nghìn quân lính đứng vác giáo nghiêm mật và trăm quan
dàn hàng trước lăng, áo mũ đồng đều. Tuy nhiên, giá thử
không có thêm một mái đầu bạc trắng của người lính già say sưa nói về trận chiến
oanh liệt mà mình từng theo Thượng hoàng Trần Thái Tông trực tiếp xông pha đầu
mũi tên ngọn giáo từ cuộc kháng Nguyên lần thứ nhất mấy chục năm về trước, thì
không khí tôn nghiêm kia vẫn chưa thật có hồn, mới là cái vẻ hình thức bề ngoài
mà chưa phải là “uy linh” từ xưa vẫn còn hiển hiện. Nhà thơ đã biết dồn bút lực
cho một điểm xuyết thần tình ấy:
Tỳ hổ thiên môn túc,
Y
quan thất phẩm chung.
Bạch đầu quân sĩ tại,
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.
(Xuân nhật yết Chiêu
lăng)
(Giáo đòng nghìn cửa
mật,
Áo mũ, bảy phẩm
chung.
Người lính già đầu bạc,
Kể mãi chuyện Nguyên Phong) (23)
Cũng có những chuyến đi mang lại cho nhà thơ ấn
tượng tinh tế mà ấm áp, chẳng hạn một buổi chiều thanh bình ở phủ Thiên Trường,
nó cho ta cảm giác về một vùng quê an lạc rất đỗi quen thuộc, song không phải
lúc nào cũng có được:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương
biên.
Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch lộ nhất song phi hạ
điền.
(Thiên Trường vãn vọng)
(Xóm trước, thôn sau tựa khói lồng,
Bóng chiều dường có lại
dường không.
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng) (24)
Ta để ý bài thơ tả cảnh một buổi chiều ở thôn quê
nhưng dường như cũng là cách giải đáp một câu hỏi đã vấn vương rất lâu trong
lòng tác giả về cái “hữu” và cái “vô“ của cuộc đời trước mắt. Hai câu đầu, buổi
chiều hiện ra trong trạng thái “tĩnh” và mờ mờ ảo ảo bởi một làn khói bao phủ
khiến người ngắm cảnh giằng mắc rất lâu trong cái cảm giác lẫn lộn giữa “không”
và “có”. Nhưng chợt từ xa hình ảnh một chú bé chăn trâu đi gần lại với tiếng sáo
véo von, đánh thức tri giác rõ rệt về cái “có” - sự hiện hữu muôn đời của làng
quê Việt Nam. Thêm vào đấy lại là một đàn cò trắng lấp loáng bay xuống giữa cánh
đồng. Cái “hữu” lần lượt đánh bạt cái “vô“ thì cũng chính là trước mắt người
ngắm cảnh, cái “động” đang thay thế cho cái “tĩnh”.
Sự kết hợp tài tình của màu sắc, thanh âm xen kẽ, nối tiếp
nhau, đưa nhà thơ từ không gian hư ảo đến không gian hiện thực. Cảm quan
Thiền mới nhú ra trong lòng ông đã sớm được cảm quan thế tục thức
tỉnh(25).
Nhưng Trần Nhân Tông sẽ
trở lại với những trầm tư Phật giáo trong nhiều lần ngao du khác. Vào một dịp đi chơi động Vũ Lâm cuối mùa thu,
ông viết:
Hoạ kiều đảo ảnh, bán khê hoành,
Nhất mạt tà dương thuỷ
ngoại sinh.
\Tịch tịch thiên sơn hồng lạc diệp,
Thấp vân như mộng, viễn chung thanh.
(Vũ Lâm thu vãn)
(Lòng khe in ngược
bóng cầu hoa,
Hắt sáng bờ khe, vệt nắng
tà.
Lặng lẽ nghìn non rơi lá
đỏ,
Mây giăng như mộng, tiếng
chuông xa) (26)
Lần này, khung cảnh buổi
chiều mùa thu không bị ngăn che bằng một làn khói nào nhưng lại được nhà thơ
quan sát từ góc nhìn phản chiếu qua một con khe, ở đó cái gì cũng đảo ngược:
bóng cầu, vệt nắng,... rất đẹp nhưng đều có vẻ là ảo
ảnh. Điểm thêm vào đó còn bóng mây từ trên cao sà xuống khiến người xem
mất cảm giác về thực tại mà như đang sống trong mộng, có thêm bao nhiêu lá đỏ
rơi nhè nhẹ và tiếng chuông vẳng tới từ rất xa. Cũng
vẫn là sự phối trí thật đặc sắc giữa màu sắc và âm thanh nó làm biến đổi cái
nghĩa ngoại tại của lời thơ và tạo nên một không gian tâm linh đầy huyền hoặc,
và tước bỏ trong ta cả ý niệm về thời gian. Sự đan bện giữa cảm hứng
Thiền và cảm hứng thế tục ở Trần Nhân Tông thật rõ ràng.
Nhân Tông còn có không ít
vần thơ về quãng đời ở trong cung, khi ông còn là bậc chúa tể, “lòng còn ở trong
trăm hoa mỗi khi xuân đến” (Nhất xuân tâm tại bách hoa trung -
Xuân vãn). Đó là những vần thơ tươi trẻ, thể hiện trạng thái xốn xang bất
ngờ nhận ra mùa xuân về từ lúc nào không hay, khi chợt nhìn thấy những cánh bướm
phấp phới bên khóm hoa:
Thuỵ khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ quy.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách sấn hoa phi.
(Xuân hiểu)
(Ngủ dậy, ngỏ song
mây,
Xuân về vẫn chửa hay.
Song song đôi bướm trắng,
Phấp phới sấn hoa bay)
(27)
Bài thơ duy nhất có một
hình ảnh, nhưng là hình ảnh động: cánh của một đôi bướm đang đập. Sự dụng công
của nhà thơ là từ động tác có vẻ rối rít của màu trắng lấp loá trên những đôi
cánh bướm bỗng bật lên tiếng động của âm hưởng: phách phách, và nó chính
là ảnh xạ niềm vui bất ngờ hiện lên thành tiếng trong lòng người.
Trần Nhân Tông có khá nhiều bài cùng chủ đề mùa xuân ở trong cung, hình như mùa
xuân gây ám ảnh cho ông nhiều nhất.
Ông đón nó với tất cả sự nồng say của tuổi trẻ:
Hoan bá kiêu sầu phong vị trường,
Đào sinh, trúc đạm, ổn long sàng.
Nhất thiên như thuỷ, nguyệt như trú,
Hoa ảnh mãn song, xuân mộng trường.
(Nhị nguyệt thập nhất
dạ)
(Rượu tưới sầu tan, vị
đậm đà,
Giường rồng chiếu trúc,
trải bày ra.
Trời trong như nước,
trăng vằng vặc,
Giấc mộng xuân dài dưới
bóng hoa) (28)
Cũng ở trong cung, con
người tinh tế của Trần Nhân Tông đã không bỏ qua một tiếng thở dài, dù lẩn khuất
đâu đây, của lớp người vốn sinh ra chỉ để phục dịch, “trang trí” cho ông: người
cung nữ. Họ buồn vì sự trống trải, họ oán giận “Đông quân” thờ ơ với họ, nhưng
dù vậy họ vẫn khao khát chờ đợi một chút ân sủng của vị chúa “trăm hoa” mà họ
biết, với thân phận nhỏ mọn, mình không có quyền ra mặt đòi hỏi:
Thuỵ khởi câu liêm khán trụy hồng,
Hoàng ly bất ngữ oán Đông phong.
Vô đoan lạc nhật Tây lâu ngoại,
Hoa ảnh chi đầu tận hướng Đông.
(Khuê oán)
(Tỉnh giấc rèm nâng,
ngó rụng hồng,
Hoàng oanh im tiếng, giận
Đông phong.
Lầu Tây vô cớ, vầng dương
lặn,
Cả bóng hoa cành ngả
hướng Đông) (29)
Mặt khác, sự cảm thông
với “người trong cuộc” của nhà thơ lại cũng hé mở một phương diện sống khác của
Trần Nhân Tông: ông không phải là một ông vua ham tìm kiếm những cuộc truy hoan.
Mặc dù sống giữa ba cung sáu viện, không thiếu gì thú tiêu khiển, quanh mình đầy
hương sắc, nhưng ông vẫn dành cho bản thân những buổi yên tĩnh nơi viện sách; ở
đây sách, đèn, người và trăng như một thế giới của riêng ông:
Bán song đăng ảnh, mãn sàng thư,
Lộ trích thu đình dạ khí hư.
Thuỵ khởi châm thanh vô mịch xứ,
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ
(Nguyệt)
(Nửa song đèn sáng,
sách đầy giường,
Đêm lạnh sân thu khí đượm sương.
Thức dậy tiếng chày đâu
chẳng biết,
Trên cành hoa mộc ánh
trăng vương) (30)
Bài thơ nói về trăng song
nhà thơ cũng cho ta hiểu thêm một đam mê khác: đọc sách, học hành. Cả lĩnh vực này nữa, ông cũng là người nghiêm túc, miệt mài.
Đêm mùa thu lạnh, ông vẫn chong đèn nghiền sách đến khuya và chợp mắt
trong tư thế làm việc - đèn vẫn sáng. Khi tỉnh lại đêm vẫn còn khuya, cả không
gian im ắng, chỉ có mảnh trăng cuối tháng lửng lơ trên đầu cây quế và tiếng chày
mơ hồ từ đâu vẳng lại báo hiệu sự sống nhân gian ngoài kia
vẫn đang tiếp diễn. Nếu nói rằng trong thơ có hoạ thì các bài
thơ này là những bài đạt đến trình độ ấy.
Tâm hồn nhạy cảm của Trần Nhân Tông còn dành cho nhiều sự vật khác, gần xa xung
quanh vườn ngự.
Nhưng ta bỗng nhận ra, trong những ngày còn sống giữa cung đình, hình như từ lúc
nào không biết vị vua mê say lý thuyết “sắc không” từ nhỏ đã chuyển sang thú vui
“ngộ đạo” thay cho những thú vui phàm trần. Dấu hiệu lộ ra
không phải ở chỗ lòng ông nguội lạnh với hoan lạc, chỉ biết đắm đuối vào đèn
sách. Cái chính là ông ngày càng trở nên “vô tâm”, đúng như một vế quan
trọng thứ hai trong bài thơ kết thúc Cư trần
lạc đạo phú: Đối cảnh vô tâm
mạc vấn Thiền / Vô tâm trước cảnh hỏi gì Thiền. “Vô tâm”, theo quan niệm nhà
Phật, là vô tâm tưởng, tức là để cho tâm yên tĩnh, “ngừng lại trong nhất thời
các hoạt động của tâm thức”, chỉ còn xử lý mọi việc như một thói quen mà mình
không để ý, cái đó giúp người ta lìa bỏ vọng niệm đi nhanh đến sự giác ngộ
(31). Hai bài thơ khác cùng tả cảnh xuân của ông cho
thấy sự “vô tâm” ngày một chi phối tâm trạng nhà thơ.
Một bài là lời chiêm nghiệm về quá trình đổi thay của tâm thức thông qua từng
lứa tuổi thấm hiểu dần lẽ “sắc không” nó khiến ông khám phá được “vẻ mặt thật”
của Chúa xuân chẳng qua chỉ là cái “sắc” nhất thời chứ không mãi mãi quyến rũ
yêu kiều như thuở tóc còn xanh mình vẫn hằng mơ tưởng:
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung.
Như
kim kham phá Đông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán truỵ hồng.
(Xuân vãn)
(Tuổi trẻ chưa tường
lẽ sắc không,
Xuân sang, hoa nở, rộn tơ
lòng.
Chúa xuân nay đã thành
quen mặt,
Nệm cỏ ngồi im ngó rụng
hồng) (32)
Một bài nữa là sự đối
diện với cảnh xuân ngay trước thềm rồng mà nhà thơ là người đón khách để rồi
cùng với khách hướng tâm hồn đi tận đâu đâu:
Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì,
Hoạ đường thiềm ảnh mộ vân phi.
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thuý vi.
(Xuân cảnh)
(Chim nhẩn nha kêu
liễu trổ dày,
Thềm hoa chiều rợp áng mây bay.
Khách vào chẳng hỏi
chuyện nhân thế,
Cùng tựa lan can nhìn núi mây) (33)
Một cảnh xuân được chấm
phá bằng vài nét, không có hoa đào, không có tiếng pháo, không có gì hết, chỉ có
duy nhất mấy tiếng chim kêu chậm rãi trong bụi liễu đang trổ hoa, có cái hình
ảnh động duy nhất của một bóng mây trôi trên bầu trời làm rợp cả thềm son, và có
sự góp mặt không lời của hai con người - chủ và khách, họ không cần biết đến sự
hiện diện của nhau, bởi cùng đang để hết tâm trí vào một điểm vô định nào nơi
cõi mờ ảo của mây và núi. Một cảnh sắc xuân đơn sơ, thanh đạm mà lưu lại trong
người đọc muôn ngàn vương vấn. Chủ thể sáng tạo không dùng đến lý tính, chỉ bằng
trực giác đột ngột gợi thức ta, đưa ta rời bỏ tục niệm để cùng đi vào cái miên
viễn của thời gian và cái mênh mông vô tận của đất trời, trong những phút giây
mà cả vũ trụ và con người đều đang chuyển hoá. Trần Nhân Tông đã “ở giữa cõi trần mà vui đạo” như thế đó.
Một bài thơ khác nói đến hoa mai hình như làm vào lúc nhà thơ đã rời bỏ cung
cấm. Có biết bao thi sĩ
phương Đông đã vịnh hoa mai nhưng Trần Nhân Tông vẫn đến với hoa mai bằng những
rung cảm riêng, vừa thâm trầm sắc sảo, vừa tình tứ nồng nàn:
Ngũ xuất viên ba kim niễn tu,
San hô trầm ảnh hải lân phù.
Cá tam đng bạch chi tiền diện,
Tá nhất biện hương xuân thượng đầu.
Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh,
Dạ quang như thuỷ khát cầm sầu.
Hằng Nga nhược thức hoa giai xứ
Quế lãnh thiềm hàn chỉ má hưu!
(Tảo mai 1)
(Tròn xoe năm cánh
nhụy vàng tươi,
Lấp lánh san hô, vẩy bạc
phơi.
Cành trĩu ba đông, treo
trắng xoá,
Lơ thơ xuân sớm, thoảng
hương trời.
Bướm mơ tỉnh giấc: sương
thơm
nức,
Chim khát kêu thương: ánh
nước ngời.
Nếu biết trần gian hoa
đẹp thế,
Cung Thiềm lạnh lắm chị
Hằng ơi) (34)
Trong truyền thống thơ
xưa người ta thường khai thác ở cây mai vẻ cứng rắn, bất chấp gió sương, song
Trần Nhân Tông chỉ cực tả vẻ đẹp hồn nhiên của những cánh hoa mỏng mảnh, một vẻ
đẹp tinh khiết mà lung linh, hấp dẫn: cánh trắng điểm nhị vàng, óng ánh như bóng
san hô chìm, như vây cá nổi; khi nở rộ thì trắng vườn, toả hương thơm dịu ngọt,
khi hết mùa còn lại vài bông thì e ấp đầu cành,... Những bông hoa mai tưởng
chừng giơ tay là động đến kỳ thực lại chưa hẳn thế.
Suốt ba tháng đông, hoa khoe sắc, thu hút cảm giác vạn
vật, thách thức cả cây quế cung thiềm; thế mà chỉ qua vài hôm, mùa xuân chợt đến
là màu trắng rạng rỡ đã tan biến đi như một phép lạ. Những đoá hoa mai gần
gũi nhưng thật xa vời! Hương thơm của hoa làm
cho bướm si mê phải giật mình tỉnh giấc; sắc hoa hoà ánh trăng loang loáng như
nước làm cho con chim đang khát cháy cổ thêm buồn rầu; cành mai tươi đẹp rơi vào
giấc mộng cố nhân khiến cho người tỉnh giấc càng bâng khuâng vì hoa chỉ là hoa
trong mộng! Trần Nhân Tông đã viết những vần thơ độc đáo có
một về hoa mai. Các nhà am hiểu Thiền học có thể khen Tảo mai là
bài thơ Thiền đặc sắc. Bởi lẽ ở đây “cái sắc” và “cái không” quyện vào nhau bao
nhiêu thì cái ham muốn và cái nhận được lại cách xa nhau bấy nhiêu. Dường như
bài thơ là một lời chỉ dẫn cho đệ tử về lẽ “vô thường” của vạn vật để từ đó biết
hạn chế những dục vọng trong cuộc đời! Thế nhưng nếu bằng
những cảm xúc hoàn toàn thế tục, người đọc cũng không thể phủ nhận giá trị thẩm
mỹ tuyệt tác của những vần thơ này và cũng như tác giả bỗng xúc động bâng khuâng
trước vẻ đẹp của những cành mai nở sớm. Có thể tin đây là mai Yên
Tử bởi vì đằng sau những cành mai không thấy bóng dáng một toà lâu các, một cánh
rèm hoa hay những khách công hầu, những trang mỹ nữ mà chỉ có mây quan ải, trăng
xóm đồi, băng trên sông và tấm lòng bạn cũ. Tuy là hoa mai Yên
Tử song cảm giác về nó lại không kém thế tục. Thơ Nhân Tông như thế là vừa đạo vừa đời.
*
*
*
Nhìn
chung
lại Trần Nhân Tông là một con người toàn vẹn và một tài năng đa dạng. Trong ông
có bản lĩnh quả quyết của một người cầm chịch quốc gia chững chạc, có cái sắc
bén, thung dung của một nhà chính trị, ngoại giao, có sự sâu sắc thâm trầm của
một nhà Thiền học và quán xuyến tất cả là lòng nhân ái, đôn hậu, yêu nước nồng
nàn,... của con người Việt Nam cùng với một hồn thơ nhạy cảm. Trong thời thịnh Trần, ông xứng đáng là một cây bút thơ có phong
cách và cũng là một đỉnh cao. Viên Mai, một nhà lý luận về thơ nổi tiếng
của Trung Quốc cổ đại, khi bàn về thơ có nói: “Thơ nên phác, không nên xảo,
nhưng phải là cái chất phác của sự tuyệt xảo. Thơ nên đạm không nên nồng nhưng
phải là cái đạm sau khi đã nồng”(35). Nhiều bài thơ của Nhân Tông đã
đạt đến cái chất phác của sự “tuyệt xảo” và cái vị đạm “sau khi nồng” ấy. Có
điều, ngay cả những bài sắp đặt ngôn từ khéo léo như Quỹ Trương Hiển Khanh
xuân bính, Xuân nhật yết Chiêu lăng... hay những bài mang hương vị
nồng khá rõ như Xuân hiểu, Tảo mai,... chắc gì đã thua kém những bài thơ
“phác” và “đạm” khác của ông. Phải nói ông không chủ trương phác hay xảo, nồng
hay đạm mà hoàn toàn “tuỳ duyên” và “vô tâm”, vì thế đã đạt tới sự thẩm thấu -
phác đấy mà lại cũng xảo
đấy, nồng trong khi đạm và đạm
ngay cả khi nồng.
N.H.C. – T.T.B.T.
(Gương mặt văn học
Thăng Long, bộ mới do Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB Hà Nội, 2010; tr. 146 –
169)
Chú thích
([1]) Đại Việt sử ký
toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch.
NXB Khoa học xã hội, in lần thứ hai, H., 1971; tr. 52.
(2) Đại Việt sử ký
toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch.
1971, Sđd; tr. 50.
(3) Đào Phương Bình dịch.
Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng, NXB Khoa học xã hội, H., 1989.
(4) Trần Trọng Kim dịch.
Việt Nam sử lược, Nhà in Trung Bắc tân văn, H., 1920. In lại trong Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng,
1989, Sđd.
(5) Xem Đại Việt sử ký
toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch. 1971, Sđd; tr.
52 - 53.
(6) Đại Việt sử ký
toàn thư, Bản kỷ, Q. V; tờ 52a. Nguyên văn: 今 年 賊 閑 (Kim niên tặc nhàn).
(7) Trong cuốn Trần
Nhân Tông toàn tập, NXB TP. HCM, 2000, nhà nghiên cứu Lê Mạnh Thát cho rằng
trong lần định công khen thưởng này “Đỗ Hành, người bắt được Ô Mã Nhi tại trận
thuỷ chiến Bạch Đằng, đã không được tước cao, vì đã không đem Ô Mã Nhi dâng cho
Trần Nhân Tông mà lại đem dâng cho Thượng hoàng Trần Thánh Tông”, và “Hưng Trí
vương Nghiễn không được thăng trật do hăng say đón đánh bọn giặc Nguyên trên
đường tháo chạy về nước sau khi đã có lệnh của vua Trần Nhân Tông không được cản
trở chúng”, những sự việc ấy “muốn xác định cho ta biết ai là người lãnh đạo tối
cao của đất nước” (tr. 160). Chúng tôi nghĩ, hai sự kiện đã nêu chỉ là nằm trong
quy chế triều đình lúc bấy giờ vốn đã được định sẵn mà thôi chứ nếu là bằng
chứng của cái uy quyền tối thượng của Trần Nhân Tông thì nó lại cũng sẽ là một
bằng chứng khác cho thấy tầm vóc và nhân cách Trần Nhân Tông không cao mà thấp
hơn ta tưởng, vì ông tham quyền và cố chấp, ganh tỵ với cả thân phụ mình. Thực
ra, theo nguyên tắc thế tập của nhà Trần, vua là người
trực tiếp cầm quyền điều hành triều chính nhưng Thái thượng hoàng mới là người
có quyền lực cao nhất. Cần nhớ rằng người điều khiển cuộc định công ban thưởng
quân dân sau chiến thắng năm 1288 cũng là Trần Thánh Tông chứ không phải Trần
Nhân Tông. Chủ trương đốt bỏ hòm biểu của những vương hầu hàng giặc cũng là Trần
Thánh Tông, những lệnh chỉ trị tội Trần Khánh Dư khi ông thua trận Vân Đồn, và
tiếp đấy tha tội cho ông sau khi ông lập công đánh tan thuyền lương Trương Văn
Hổ đều là do Trần Thánh Tông ban bố, và ngay Đại Việt sử ký toàn thư
cũng không hề nói Trần Nhân Tông hay Trần Thánh Tông là người đưa ra quyết định
không truy đuổi tiếp đội quân Nguyên rút theo đường bộ nữa. Bởi vậy, việc ban
thưởng cho các tướng đến bậc nào và ai không được ban thưởng không tuỳ tiện theo ý cá nhân Trần Nhân Tông được.
(8) Đại Việt sử ký
toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch. 1971, Sdd; tr.
55: “Lúc đó, vua ngự thuyền nhẹ ra lộ Hải Đông, ngày đã gần chiều, chưa
ăn cơm sáng. Có người tiểu tốt là Trần Lai dâng cơm gạo hẩm, vua khen là
trung, ban cho chức Thượng phẩm, kiêm chức Tiểu tư xã xã Hữu Triều Môn ở Bạch
Đằng”.
(9), (10), (11) Đại
Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch.
1971, Sdd; tr. 75, 71.
(12) Đại Việt sử ký
toàn thư, Bản kỷ, Q. V; tờ 38b. Nguyên văn: 然 游 心 釋 典 。雖 曰 超 脫 而 非 聖 人 中 庸 之 道 也 (Nhiên du tâm Thích điển, tuy viết siêu thoát
nhi phi thánh nhân Trung dung chi đạo dã)
(13) Thơ Văn Ngô Thì Nhậm,
Tập I, NXB Khoa học xã hội, H., 1978; tr. 101 - 102.
(14) Thánh đăng ngữ lục,
xã Liễu Chàng in năm Tự Đức thứ nhất (1848), A. 2596. Truyện
Trần triều Nhân Tông Hoàng đế.
(15) Nguyễn Huệ Chi dịch. Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q,
thượng, 1989, Sđd.
(16) Nguyên văn rất dài không
thể trích lược trong vài dòng. Xin xem Phật học đại từ điển 佛 學 大 辭 典, Hoa tàng Phật giáo đồ thư
quán tái bản, Đài Bắc, 1989; tr. 2696 - 2697.
(17) Đỗ Văn Hỷ dịch. Thơ
văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd. Có hiệu chỉnh.
(18) Nguyễn Huệ Chi dịch. Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd.
(19) Trần Lê Văn dịch. Thơ
văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd.
(20) Trần Lê Văn dịch. Thơ
văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd. Có hiệu chỉnh.
(21) 安 南 雖 小 文 章 在 。未 可 輕 談 井 底 蛙. Trần Kinh Hoà dịch thành thơ là: “An Nam tuy nhỏ văn chương thịnh - Ếch giếng
khuyên đừng chế giễu ngoa”. Hai câu này lại được lặp lại trong bài thơ của
Lương Tằng 梁 曾 sang sứ nước ta năm 1293 sau Trương Lập Đạo hai năm. Xem thêm
An Nam chí lược, Trần Kinh Hoà khảo đính và dịch, NXB Thuận Hoá và Trung tâm
Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây tái bản có chỉnh lý, 2002; tr. 301, 309 và 514. Cần
nói thêm là Thượng thư Trương Lập Đạo lúc đầu có thái
độ rất hống hách. Trong khi ông ta đang ca ngợi lòng nhân của Hốt Tất Liệt với
Trần Nhân Tông, đại thần Đinh Củng Viên “đỡ lời” rằng: “Thiên tử đã có ý tốt như
thế thì trước kia, không động đến đồ binh khí chẳng là càng tốt hơn sao?”.
Ông ta liền nạt ngay “Kẻ tạo nên mối hoạ cho nước An Nam, chưa chắc không do bọn ngươi. Đạo trời cao rộng,
ngươi làm gì mà biết được!”. Rồi lập tức phất
tay áo đứng dậy. Đinh Củng Viên phải xin lỗi mới chịu
tiếp tục cuộc đối thoại. Xin xem thêm sách này; tr. 96,
và tr. 400. Nguyên văn: 于 時 私臣丁拱 垣 曰。天 子 僊 意 如 是 。一 向 不 動 干 戈 更 好 。立 道 叱 之 曰 。成 安 南 之 禍 者 。未 必 不 由 若 等 為 之 也。天 道 闊 何 足 以 知 之 。立 道 等 拂 袖 而 起 。拱 垣 請 罪 。
(22) Trần Lê Văn dịch. Thơ
văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd.
(23) Bản dịch cũ, chưa tìm ra
xuất xứ.
(24) Ngô Tất Tố dịch. Thơ văn đời Trần, NXB Khai trí tái bản, Sài Gòn, 1960. In lại trong Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd.
(25) Theo ý PGS. Trần Nghĩa
thì bài thơ này là một hệ thống gồm 4 cấp độ tư duy Thiền: Có / không / vừa có
vừa không / không có không không. Chúng tôi xin ghi lại để bạn
đọc tham khảo.
(26) Trần Thị Băng Thanh dịch.
Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q. Thượng, 1989, Sđd
(27)
Ngô Tất Tố dịch. Thơ văn đời Trần,
1960, Sđd. In lại trong Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q.
thượng, 1989, Sđd.
(28), (29), (30) Trần Lê Văn dịch. Thơ
văn Lý - Trần, Tập II, Q. Thượng, 1989, Sđd.
(31) Nguyên văn luận thuyết
khá dài, khó trích lược trong vài dòng. Xin xem Phật học đại từ điển佛 學 大 辭 典, 1989,
Sđd; tr. 2148.
(32)
Ngô Tất Tố dịch. Thơ văn đời Trần,
1960. In lại trong Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng,
1989, Sđd.
(33)
Nguyễn Huệ Chi dịch. Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd.
(34)
Nguyễn Huệ Chi dịch.
(35) Nguyên văn: 詩 宜 朴 。不 宜 巧 。然 必 须 大 巧 之 朴 。詩 宜 淡 不 宜 濃。然 必 须 濃 後 之 淡 - 随 园 詩 話 。卷 五 (Thi nghi phác, bất nghi xảo,
nhiên tất tu đại xảo chi phác. Thi nghi đạm bất nghi nùng, nhiên tất tu nùng
hậu chi đạm - Tuỳ Viên thi thoại, Q. V).
Nguồn: BVN