Minh Thạnh
Bài
viết này giới thiệu quyển sách “Tôn giáo
thế giới và Việt Nam” của tác giả Mai Thanh Hải, một nhà nghiên cứu tôn giáo
được nhiều người biết đến. Sách dày 267 trang, khổ 13 x 19 cm, do Nhà xuất bản
Công an Nhân dân xuất bản năm 1998, vẫn còn khá dễ tìm,
đặc biệt là trong các thư viện.
Nếu cần tìm thông tin về
các tôn giáo lớn trên thế giới, quyển sách không dày này chỉ cung cấp cho chúng
ta những thông tin khái quát, cơ bản. Bạn đọc Phật tử muốn tìm thông tin về Phật
giáo, thì có lẽ sẽ thất vọng, vì so với nhiều tài liệu tôn giáo học, thông tin
về Phật giáo trong quyển “Tôn giáo thế
giới và Việt Nam” còn khá sơ lược.
Tuy nhiên, nếu bạn đọc
muốn tìm hiểu về tiến trình hoạt động và phát triển của các tôn giáo tại Việt
Nam hiện nay, trong đó có Phật giáo, với mối quan hệ tương tác với các tôn giáo
khác, thì “Tôn giáo thế giới và Việt Nam” là một tài
liệu đáng quan tâm.
Sách có 6 phần chính, trong đó, phần III, “Các tôn giáo ở Việt Nam” là phần mà chúng tôi muốn giới thiệu cùng
bạn đọc.
Trong phần này, tác giả
Mai Thanh Hải dường như miêu tả từng tôn giáo riêng lẻ, nhưng đọc hết cả phần,
diện mạo chung của hoạt động tôn giáo tại Việt Nam hiện
ra khá rõ nét trong sự phức tạp của nó.
Đối với Phật giáo, số lượng tín đồ ghi nhận ước lượng lúc bấy giờ là “khoảng 15
triệu”.
Sự phát triển của Phật giáo Việt Nam cũng được ghi nhận, tuy chủ yếu chỉ về mặt
bề nổi, và kèm theo đó là một số vấn đề phát sinh: “Khoảng mươi năm gần đây, đời sống tín ngưỡng có nhộn nhịp hơn trước. Số
người đi lễ chùa tăng lên một cách đáng kể, trong đó có cả nhiều người không
hiểu biết gì về giáo lý
và tổ chức giáo hội, thậm chí nhiều người chỉ cốt tìm ra một chốn yên ổn
tâm hồn. Ở một số chùa, việc cúng bái vượt ra khỏi giáo lý và kỷ cương nhà chùa,
pha tạp và xen kẽ nhiều hình vẻ mê tín dị đoan; trong “tâm linh” nhiều người đi
lễ chùa (như chùa Hương chẳng hạn), có không ít người muốn cầu xin một ít may
mắn nào đó để trốn được thuế, để “một vốn bốn lời”, thậm chí muốn xin xỏ một
“đặc ân” trên trời rơi xuống, hoặc một đòn
thù báo oán, chẳng khác gì họ cầu xin ở các phủ, các đền bà chúa nọ, ông thánh
kia. Ở một khía cạnh khác, đạo Phật gần đây còn là nguồn an ủi cho một lớp người
đứng tuổi, là nơi xa lánh cõi đời của một số người gặp “số mệnh” lênh đênh và
cũng là một vốn liếng cho một số trí thức muốn lần trở lại khía cạnh triết lý
của của đạo Phật. Đông người đi lễ chùa, chưa hẳn đã là một tiêu chí để đánh giá
thành đạt cao thấp của cửa Phật. Khâu chủ chốt quyết định tương lai đạo Phật ở
Việt Nam rất có thể phải tìm lại trong các bài học sâu sắc của những chặng đường
gắn bó với dân tộc, với thời cuộc.”
Tình hình phát triển như
thế của Phật giáo Việt Nam là một bức tranh xen lẫn các mảng sáng/tối.
Thế nhưng, sẽ rất đáng lưu tâm nếu đặt Phật giáo bên cạnh sự phát triển của các
tôn giáo khác ở Việt Nam. Sách “Tôn giáo thế giới và Việt Nam” dành một
sự lưu ý khá đặc biệt đối với đạo Tin Lành. Tác giả Mai
Thanh Hải không giới hạn sự tìm hiểu chỉ ở Tin Lành Cao nguyên mà ông còn ghi
nhận sự phát triển của tôn giáo này ở nhiều tỉnh đồng bằng. Đoạn dưới đây
trích từ sách dẫn trên, các trang từ 163 đến 167:
“Mấy tháng đầu năm 1975, ngụy quyền Sài Gòn tan rã, lính Mỹ bỏ chạy, các
giáo sĩ Tin Lành người nước ngoài cũng tháo chạy, kéo theo một số đông giáo sĩ
người Việt; một số chức sắc và tín đồ trước kia đã là sĩ quan ngụy, nay lại tham
gia tổ chức FULRO vũ trang chống chính quyền; phạm vi và mức độ hoạt động của
Tin Lành giảm sút hẳn, thậm chí nhiều nơi như liệt hẳn, như chưa từng tồn tại.
Mười năm qua đi, mấy năm cuối của thập kỷ 80, người ta lại thấy một số giáo sĩ
Tin Lành quay trở về chốn cũ, phục hồi lễ bái cầu nguyện, thu nạp thêm hội viên
mới, xây dựng thêm nhiều cơ sở mới ở các vùng sâu, vùng xa xôi hẻo lánh. Những
năm gần đây, người ta thấy Tin Lành lan tỏa trong thinh lặng nhưng rất nhanh
trong rất nhiều buôn ấp Tây Nguyên, cả tận các xóm nhỏ khuất nẻo đầu nguồn cuối
rừng (đến năm 1995, số người theo Tin Lành ở Tây Nguyên đã lớn gấp ba lần số tín
đồ hồi tướng Mỹ John Paul Vann trực tiếp chỉ đạo ở Tây Nguyên những năm đầu thập
kỷ 70). Cũng có những hoạt động tương tự ở một số vùng của các tỉnh Long An, Bến
Tre, Quảng Nam, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Tuyên Quang, v.v…
Đáng chú ý là Tin Lành gần đây đưa ra nhiều hình thức “tân kỳ” dễ hấp dẫn, như
làm lễ “bồi linh”, “hiệp nguyện” (nhiều nơi còn kết hợp nhảy múa ca hát cho linh
hồn được thanh thỏa…). Nhiều cơ sở cũ của Phục Lâm được phục hồi mạnh hơn xưa,
họ làm cho nhiều đảng viên cán bộ sợ bị cô lập hoặc bị “lạc hậu” nên cũng a dua
ừ ào về thế giới tâm linh, về thế kỷ XXI tới đây là thế kỷ của tôn giáo hiện đại,
cụ thể là thế kỷ của Tin Lành, của
Ngũ Tuần, v.v…; ở nhiều thành phố như thành phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt, Nha Trang,
Đà Nẵng, Hải Phòng, Nam Định và cả ở Hà Nội, trong môi trường trí thức, cũng
xuất hiện các nhóm “nói tiếng lạ” vừa nhịn ăn, cầu nguyện la hét, đợi Chúa Giáng
lâm, theo kiểu giáo hội Ngũ Tuần (còn gọi là giáo hội Ngày thứ năm mươi –
Cinquantieme jour - Pentecotism); phong trào “nói tiếng lạ” cũng len lỏi cả đến
một số vùng đông người Công giáo và một số vùng miền núi xa xôi như Bắc Cạn, Lào
Cai, Yên Bái v.v… Những cuộc di cư cỡ bỏ túi kéo dài liên tục mươi năm nay trong
vùng đồng bào Hmong, vụ tự sát mông muội ở bản Pá He (Sơn La), các cuộc đột biến
trong giáo hội Moon ở Hàn Quốc, AUM ở Nhật, David ở Mỹ, Anh em trắng của Đức Bà
ở Liên Xô cũ, Đền Mặt trời ở Pháp và Thụy Sĩ, v.v… chẳng phải là những hồi
chuông liên tục báo động cho tất cả những ai quan tâm đến tôn giáo đó sao? Một
số người Bắc Âu và Hàn Quốc, dưới tư cách tham quan hoặc chuyên gia kỹ thuật, đã
móc nối các đường dây “đi tu nghiệp”, thăm viếng du lịch “Tân sứ đồ” và “Hội
Thánh bốn phương”, hoặc đi hợp tác lao động, để làm những việc phi tôn giáo dưới
danh nghĩa Tin Lành canh tân.
Mặc khác, do chính sách ngoại giao đa phương đa diện của đất nước, chúng ta đón
tiếp nhiều đoàn đại biểu Tin Lành các nước đến thăm và viện trợ xã hội. Cũng có
đoàn đưa ra những kiến nghị rất cụ thể khiến cho chúng ta không thể không suy
nghĩ tín toán, như đoàn ADRA của tổ chức Tin Lành Mỹ, đề nghị được cung cấp tiền
bạc và kinh sách cho các mục sư Việt Nam, đề nghị cho lập Văn phòng đại diện
thường trực tại mấy thành phố, cho xây dựng thêm nhiều nhà thờ ở những nơi tín
đồ chẳng có bao nhiêu, v.v…
Điểm lại diễn biến gần một trăm năm
đạo Tin Lành vào Việt Nam, người ta có thể ghi nhận rằng quá trình này chịu sự
tác động quá lớn của các sự kiện chính trị xã hội, nhất là khi đất nước bị chia
cắt, Tin Lành miền Nam mang dấu ấn rất sâu nặng của cuộc cọ sát máu lửa kéo dài
hai mươi năm. Đã có nhiều năm kéo dài sau khi nước nhà được thống nhất, nhiều
người tưởng lầm rằng Tin Lành đối với nước ta chỉ là một vấn đề của quá khứ,
cũng không nên tưởng lầm rằng đây là vấn đề của một số biện pháp hành chính gọn
nhẹ. Không nên nhìn nhận rằng hoạt động truyền giáo của Tin Lành lúc này hay lúc
kia thuần túy là những hoạt động dò la, do thám tình hình để phục vụ cho các kế
hoạch hành quân hay các chương trình này nọ, nhưng cũng không nên chỉ thấy những
người đi truyền giáo sống rất thanh bần, mang một niềm tin nung nấu trong tâm
can, chỉ đăm đăm một mục tiêu duy nhất là “hầu việc Chúa”. Cho đến nay, số tín
đồ Tin Lành trong cả nước đã vào khoảng 400.000 người, thuộc hơn mười giáo hội
khác nhau, khoảng 500 giáo sĩ (trong đó có 112 người thuộc các dân tộc thiểu số
ở Tây Nguyên). Tuy số lượng không lớn lắm, nhưng Tin Lành chọ lựa các hình thức
hoạt động mềm dẻo, giáo lý và lễ nghi được đơn giản hóa và quần chúng hóa nhiều
nơi đã thích nghi dễ dàng với phong tục tập quán và “khẩu vị” người địa phương
(1). Các tệ nạn xã hội, sự phân tầng giàu nghèo, những bất thường trong thiên
tai dịch bệnh, v.v… đều là những duyên cớ bức bối cho con người ta đi tìm nguyên
nhân, giải pháp, mà những con đường để đi tìm các lời giải đáp đó đâu phải chỉ
có một! Có thể dự liệu là tới đây, số lượng tín đồ và phạm vi hoạt động của Tin
Lành còn có thể tăng, điều cốt yếu là tín đồ Tin Lành không tách rời điều kiện
lịch sử mới, tìm được nhiều phương sách đúng đắn để hòa nhập trong cộng đồng dân
tộc cùng nhau vững bước trên con đường tốt đời, đẹp đạo.”
(1)
Một số nơi ở Tây Nguyên khá phổ cập
Đạo Ba Không: Không đi lính, không đóng thuế, không đi họp; hỏi sâu, thì mới
thấy đây là tóm tắt nội dung “giáo lý” của một giáo hội Tin Lành kiểu “mới”.
Các vấn đề sẽ trở nên
đáng lưu ý hơn, nếu chúng ta so sánh với những con số dẫn lại ở trên với số liệu
thống kê của cuộc Tổng Điều tra dân số năm 2009. Theo cuộc Tổng Điều tra dân số
năm 2009, số người theo
đạo Phật chỉ còn 6.802.318 người. Như vậy là giảm đến hơn phân nửa.
Trong khi đó số người theo Tin Lành là 734.168 người,
có thể nói là tăng gần gấp đôi.
MT