Minh Thạnh
Đây
có thể nói là một
ghi nhận, với tầm mức như một phát hiện, của Tiến sĩ Lê Tâm Đắc.
Việc
khởi phát của Phong trào chấn hưng Phật giáo tại Việt Nam đầu thế kỷ XX được coi là có nguyên
do từ tình trạng suy thoái của Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn này. Những ghi nhận về những biểu hiện suy thoái của
Phật giáo Việt Nam rất đa dạng, như vấn đề tu tập, trình độ Tăng Ni Phật tử, mê tín, hủ
tục, thiếu am hiểu Phật pháp, kinh sách
chỉ bằng Hán tự, Phật
giáo bị cắt rời khỏi đời sống… Tuy nhiên, biểu hiện tín đồ Phật giáo cải đạo sang tôn giáo khác là
một biểu hiện ít được
chú ý.
Tác
giả Lê Tâm Đắc, trong quyển Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924 – 1954), nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2012, đã dành sự
quan tâm đặc biệt đối với việc cải đạo tín đồ Phật giáo, trong vai
trò là
một
trong những động lực thúc đẩy sự phát sinh
của phong trào chấn hưng Phật giáo.
Trang
38, sách dẫn trên có đoạn:
“Trong bối cảnh
chính trị, văn hóa, xã
hội Việt Nam đầu thế kỷ XX biến đổi và biến động sâu sắc,
đã xuất hiện nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo mới,
trong đó có đạo Cao Đài. Năm 1926, Cao Đài chính thức khai đạo ở chùa Gò Kén (Tây
Ninh). Sau đó, hiện tượng tôn giáo này đã
nhanh chóng lan ra một
số địa phương khác ở miền Trung và một bộ
phận nhỏ ở
miền Bắc. Ngay sau khi
ra đời, những hoạt động rầm rộ của đạo Cao Đài đã thu hút
được đông
đảo nhân dân vùng Nam Bộ,
trong đó nhiều người trước đó từng là tín
đồ của Phật giáo. Không những thế, đạo Cao Đài còn lớn
tiếng tuyên bố: Các tôn
giáo lớn mang tính
truyền
thống của Việt Nam như Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo đương
thời đều đã đến thời kỳ mạt pháp. Do vậy, đạo Cao Đài được lập ra để
cứu đời. Trước tình hình đó, các
Tăng sĩ và các nhà
Phật học đều có phản ứng mạnh mẽ. Tuy nhiên, muốn
đương đầu
với đạo
Cao Đài, thì Phật giáo cần phải được chỉnh đốn, cần phải chấn hưng, đặc biệt là việc
loại bỏ những tệ lậu nơi cửa Phật”.
Hiện
tượng cải đạo tín đồ Phật giáo như là
một nguyên nhân trực tiếp tác động đến những khởi xướng cuộc vận động chấn hưng Phật giáo cũng được nói đến ở trang 47, sách Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924 – 1954), trang
47:
“Đầu năm 1927, nhân xuống Hải Phòng thăm một số thiện tín ủng hộ
việc tu tạo chùa Hang (Tiên Lữ Động
Tự, làng An Thái, đồn điền Đồng Bẩm, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên) nơi ông đang trụ
trì, biết chuyện đạo Cao Đài đã lan tới Hải
Phòng (?!), đặc biệt được đọc bài Nên chấn hưng Phật giáo nước nhà của Nguyễn
Mục Tiên trên Đông Pháp Thời Báo, số 529, ngày 5 -1-1927, sư Tâm Lai (trên
mặt
báo thường lấy bút danh
là Tỷ khiêu tự Lai) đã “cảm động muốn phát phẫn” và khởi xướng
một chương trình chấn hưng Phật giáo”.
Hiện
nay, hoàn cảnh như trên đối
với Phật giáo đang có chiều hướng lặp lại. Số
tín đồ Phật giáo theo các
thống kê chính thức được tiến hành ở quy mô lớn được
ghi nhận là sụt giảm
liên tục. Sự gia tăng
tín đồ của đạo Cao Đài đã dừng lại, nhưng thay vào đó là
sự gia tăng tín đồ
của một tôn giáo khác,
mà có
nguồn
thông tin cho số liệu lên đến 600% (!). Mức gia tăng
như thế phản ánh sự chuyển biến mạnh trong cơ cấu
phân bố tôn giáo, mà
Phật giáo là tôn giáo
đang chịu những ảnh hưởng tiêu cực nặng nề.
Như
vậy, nhắc đến đối phó cải đạo
là động lực chấn hưng Phật giáo trong lịch
sử cũng là nói đến
nhu cầu tiếp tục chấn hưng Phật giáo hôm nay, khi
diễn
biến cải đạo đang đe dọa trực tiếp đến Phật giáo Việt Nam. Hiện trạng cải đạo tín đồ Phật giáo cần được ghi nhận, lưu ý thường xuyên như là những cảnh báo cần thiết để tác động tích cực đến công cuộc chấn hưng Phật giáo.