Tôi
bỏ mẹ mà đi tu từ khi mới vừa học xong mẫu giáo. Ngày đó tôi không còn hình dung ra thế nào.
Chỉ còn chút ám ảnh mơ hồ là giọt nước mắt lấp lánh trên khuôn mặt nặng buồn của
mẹ; là tiếng mẹ tôi – mà sau này nghĩ lại, tôi mới nghe được hết cái nghẹn ngào
tủi hờn trong đó – “Thôi, đi đi. Ði ở với người ta cho
sướng. Ở với mẹ khổ quá mà!”
Còn
lấy chút ám ảnh mơ hồ này là vì, những gì đó đã đọng lại trong trái tim thơ dại
của tôi, đã hiện lên và vang động trong những đêm đầu tiên, tôi nằm một thân một
mình như đứa trẻ mồ côi dưới mái Ngôi Chùa nhỏ ở một quận lỵ trên miền cao
nguyên lạnh lẽo, xa vời, cách biệt. Ðứa bé là tôi đó đã khóc với nỗi cô độc đầu
đời của mình, lặng lẽ trong nhiều đêm lạnh với giọt nước mắt mẹ, với khuôn mặt
mẹ buồn, với tiếng nói như xa như gần của mẹ trong cái buổi sáng mẹ tôi đưa tôi
đi tu.
Rồi
cũng thôi, tôi không khóc nữa để còn cắp sách đến trường, để sớm chiều còn lo
học kinh kệ. Nhưng những đêm đầu tiên đó cũng đã đủ cho
tôi giữ chặt trong lòng để khi nào nghĩ đến cũng mường tượng ra, dù mơ hồ, cái
hình ảnh xa vời của ngày tôi bỏ mẹ mà đi tu. Cuộc chiến
tranh 1947-1954 trên quê nghèo xơ xác từ bao đời đã làm cho cửa nhà cha mẹ tôi
tan nát mấy bận. Cơm không đủ ăn, phải sắn khoai đắp đổi qua ngày.
Một
chiều đông, sau cơn lụt tháng mười gạo thóc để dành cho những ngày rét mướt bị
hư hao, cả nhà ngồi quanh cái mâm … không cơm, mẹ phán “từ rày, mỗi bữa mỗi đứa
chỉ được một chén cơm lưng thôi.” Ðứa bé là tôi không
hiểu nỗi cơ hàn vây bủa đang đè nặng trong lòng mẹ thế nào, đã ấm ức và gan lì
chấp nhận, tự hẹn sẽ không bao giờ ăn
chén cơm thứ hai nào nữa. Ðể rồi, mặc cho mẹ buồn, mẹ giận, mẹ năn nỉ, đứa bé là
tôi cũng nhất định sống với cái “khẩu quyết” một bữa một chén dễ chừng đến cả
mấy tháng về sau, ngay cả khi cơm gạo đã có đủ cho cả nhà tạm no bụng. Mùa đông nơi quê tôi lạnh rét đến như cắt da cắt thịt.
Hình
ảnh mẹ trong những đêm đông mưa gió mới thật là não lòng. Dưới mái nhà tranh rách nát vì bom đạn
chưa được sửa chữa, lờ mờ bóng mẹ ngồi co ro nơi một góc nhà ướt đẫm, lặng nhìn
mấy anh chị em chúng tôi cuốn tròn trong những manh chiếu rách hay tấm vải bố tả
tơi nơi một góc nhà còn khô ráo. Có lẽ, đây là hình ảnh gây ấn tượng sâu nhất
nơi tôi; đến nỗi trong suốt gần nửa thế kỷ trôi qua, hễ cứ nhìn thấy mưa gió ở
đâu trên mặt đất này là lòng tôi cũng chùng xuống với cái hình ảnh đã trở thành
kinh nghiệm đầu đời gắn liền với thịt da mình “bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn…”
để cho nỗi thương thân mình thì ít mà nỗi thương thân mẹ thì nhiều.
Thân mẹ tôi đó. Cả một đời còm cõi dưới sức nặng của cuộc sống đầy những tai trời, ách nước, họa người.
tôi không có nhiều năm tháng sống với mẹ để có thể hiểu
được sức chịu đựng của mẹ như thế nào.
Lại
đi tu ở những miền xa hun hút, không thư
từ liên lạc, không một kẻ đồng hương lai vãng trong suốt nhiều năm trời.
Chỉ còn chừng đó kỷ niệm về mẹ của cái thời tôi mới lên 5, lên 6 trong cảnh
nghèo da diết với đói, với lạnh và với mẹ. Nhưng chính
vì chỉ có chừng đó mà kỷ niệm thành mạnh, thành sâu, thành đáng trân trọng hơn
cả món quà hiếm hoi nào của đời sống này cho tôi. Mãi đến năm 1963, khi đã bắt đầu lớn, từ Nha Trang về ở Phật Học
Viện Báo Quốc, Huế, tôi mới có cơ hội về thăm mẹ. Nhưng
cũng chỉ hai, ba lần của năm này. Rồi thôi.
Mẹ
rồi lại xa biền biệt khi tôi như một tu sĩ “du phương” năm này chốn này, năm sau
đã chốn khác. Rồi Tết Mậu Thân 1968. Rồi Ðại Lộ Kinh Hoàng 1972. Mẹ bị vây hãm trong vòng lửa đạn mấy lần.
Chị tôi kể, lần đó, chiến tranh sắp tràn về làng, chết chóc rình rập ở khắp mọi
nơi, ai ai cũng kinh hoàng lo chạy loạn, con cháu đem võng lên để võng mẹ cùng
đi. Nhưng
năn nỉ, lạy lục bao nhiêu mẹ cũng từ chối, chỉ sợ mình
làm vướng tay, vuớng chân của con cháu mà thôi. Mấy chị tình nguyện ở lại với
mẹ, mẹ cũng không cho mà bảo “đã lấy chồng thì phải theo
gia đình chồng cho trọn đạo.
Ở lại
với mệ có bề gì thì lấy ai lo cho các cháu. Ðể mệ một mình niệm Phật mà yên thân mẹ hơn.
Thôi, đi đi. Ðừng có ở đó mà mệ lo mệ chết bây chừ.” Thế đành là phải gạt
lệ bỏ mẹ ở lại với không một ai giữa xóm làng hoe vắng. Rồi
chiến tranh đến.
Rồi chiến tranh đi. Hơn một ngày sau, con cháu cùng với dân làng lục tục trở về.
Chạy vội đến ngôi nhà của mẹ, con cháu thảng thốt chỉ thấy một nền nhà trống
không, không cột, không kèo, không một vết tích gì của ngôi nhà còn lại bên cạnh
một hố sâu dưới gốc cây ổi chỉ còn tan tác những cành và lá. Mẹ làm sao mà sống
sót được nữa với cảnh hoang tàn này! Con cháu vừa khóc lóc vật vã vừa lo đi tìm
xác mẹ về chôn cất.
Bỗng
đâu, một đứa cháu kêu lên: "Mệ đây. Mệ đây. Mệ còn sống."
Mọi người vội chạy lại.
Nơi đó là cái ao bao quanh vườn nhà đã khô nước. Mẹ
ngồi dưới đó, miệng mấp máy như đang niệm Phật với xâu chuỗi cầm ở trên
tay. Vực mẹ đứng dậy rồi bồng mẹ lên. không
một vết thương nào trên thân thể mẹ. Mẹ chỉ mệt mà nói không
ra lời. Ðể mẹ nghỉ ngơi, uống nước, ăn cháo. Rồi
con cháu bao quanh nghe mẹ kể: "Mấy đứa bây đi hết rồi, mệ mặc áo dài, ngồi
trước bàn thờ niệm Phật cả ngày. Mệ chẳng biết họ bắn nhau ở
đâu. Chỉ nghe một tiếng nổ kinh hoàng rồi mệ ngất đi.
Ðến khi tỉnh dậy thì thấy nằm ở đó mới hay là mệ còn sống.
Phật cứu mệ. Mệ chỉ biết vậy chứ chẳng còn biết gì
khác." Chị tôi nói, trong khi ai cũng sợ đến hãi hùng thì mẹ tỉnh táo chi
lạ.
Nghe
mẹ kể và thấy cảnh trước mắt, ai cũng cho là Phép Lạ Phật Cứu. Tôi, tôi cũng cho là phép lạ. Ðã nghe quý Thầy kể, đã đọc
trong kinh sách nhiều những phép lạ; nhưng thú thật, con người lý trí và chỉ
biết sống theo những suy nghĩ và hiểu biết của một Tu sĩ nơi tôi có biết thì chỉ
biết vậy, không bài bác bao giờ mà cũng chẳng có gì gọi là tin tưởng sâu xa để
phải xem là quan trọng mà bận tâm tìm hiểu. Nhưng khi trở về nhà, mấy tuần sau
trận chiến, ngồi trên nền nhà trơ trọi, với mẹ, với mấy chị và em, nghe chị tôi
kể, lần đầu tiên tôi mới cảm nghiệm được thế nào là Phép Lạ thực sự có mặt trong
đời sống này. Phép Lạ là sống an vui với những gì bất
tồn hữu hạn của thế gian này. Là đi trên mặt đất, là từng bước nở hoa sen như sau này, một vị Thầy
từng dạy.
Và
điều đó chỉ thành tựu khi con người có Niệm Lực, Ðịnh Lực chân chánh và vững
chãi, có Trí Tuệ thuần khiết và chân thực để sống
an nhiên với mọi cảnh. Nhưng ở một bình diện khác - và
chỉ lúc này mới là lần đầu tiên tôi cảm nghiệm - Phép Lạ còn là một cái gì đó
nằm ngồi mọi ngôn từ lý giải, mọi đầu óc nghĩ suy tinh tế nhất - những thứ luôn
luôn đòi hỏi tính cách xác thực cho mọi chân lý được phô diễn - để có thể gọi đó
như một năng lực nhiệm mầu. Bởi làm sao ta có thể đòi hỏi một lý giải mang tính xác thực về nó
khi cái gọi là xác thực với ta đang sống đây rút cùng cũng chỉ là hư ảnh?
Trong biển nghiệp trùng trùng với cái chết vây bủa bốn bề như trường hợp của mẹ
đây, mẹ chỉ ngồi đó niệm Phật với duy một niềm xác tín ở Phật không thôi mà sự
sống đuợc bảo tồn nguyên vẹn.
Có
một kẻ hở mong manh hiếm hoi nào giữa vòng vây của cái chết và một năng lực
nhiệm mầu nào đẩy mẹ vào ngay đó cho Phép Lạ có thể xuất hiện? Trong cảm nghiệm sâu xa ở mẹ, tôi nhận ra một
điều: Trong biển nghiệp mênh mang này, ở đâu mà không có nguyện lực của chư Phật, Bồ Tát, của những trái tim thuần khiết nguyện sống
vì đời! Và, một niềm xác tín mạnh mẽ có thể xô dạt lớp lớp sóng nghiệp để ta
đi vào ngay trong biển nguyện lực đó - điều mà những đầu óc say mê lý giải với
những gì gọi là xác thực của đời sống hư ảo này không thể làm được.
Chiến tranh triền miên. không ai sống chỉ để đợi
chờ Phép Lạ. Tôi tìm cách đưa mẹ vào Sài Gòn. Phải nói là tìm
cách, bởi vì với mẹ lúc đó, hình như không thể tưởng ra được có một đời sống nào
của mẹ ngoài mảnh đất quê nhà mà những nấm mộ của tổ tiên bao đời còn đó và họ
hàng ngày nay còn đó.
Dù
đói lạnh đến mấy. Dù chết chóc rình rập đêm ngày. Và dù cho những đứa con trai
của mẹ có sống ở phương nào. Cuối cùng thì mẹ cũng vào Sài
Gòn.
Nhưng chỉ được vài hôm. không ai cầm lòng nổi khi thấy mẹ ngồi ăn mà chén cơm chỉ
chan toàn nước mắt. Mẹ đòi về mặc cho bom đạn có gieo rắc chết chóc đêm ngày ở đó.
Mẹ đã chẳng màng chi đến sự an
toàn của bản thân thì sá gì những tiện nghi cho một đời sống ở Sài Gòn mà có thể
cầm chân mẹ được. Thế rồi, mẹ về.
Mẹ về để sống với mảnh đất quê cha đất tổ, với cháu con họ
hàng còn sống sót ở đó. Mẹ về để trọn nghĩa thuỷ chung
với ông bà, và với cha đã nằm xuống trước. Chỉ đến sau 1975, họ hàng con cháu bỏ
làng ra đi tìm sự sống cho lớp trẻ mai sau, mẹ mới đành theo con cháu mà đi vào Nam. Cũng một nỗi
buồn trĩu đầy trong mắt mẹ.
Cũng những ngày ăn cơm với nước mắt chan hòa.
Xa làng, xa xóm, xa nấm mộ tổ tiên ông bà, mẹ héo hắt với những giọt lệ của tuổi
già. Nhưng rồi, với con với cháu, mẹ dần nguôi ngoai. Mẹ không đòi về nữa. Mẹ dấu kín nỗi buồn tận đáy lòng cho cháu con còn có chút niềm vui.
Mẹ
tìm nguồn an ủi cho riêng mẹ trong câu niệm Phật đêm
ngày. Mẹ thâm tín Tam Bảo đâu như từ thuở nào còn nhỏ chưa lấy
chồng. tôi chỉ biết, niềm tin của mẹ sâu đến
không gì lay chuyển mà lại cực kỳ đơn thuần. Tin Phật thì mẹ niệm Phật, thì đừng
sát sanh hại vật, đừng làm điều bậy bạ cho Phật quở. Tin Phật thì thấy ai mặc chiếc áo tu của Phật - không kể lớn nhỏ,
già trẻ hay tu kiểu gì - mẹ cũng chỉ một lòng hết mực cung kính.
Thấy ai đó nói gì về một người tu thì mẹ gọi con cháu rầy ngay "đừng nghe
theo
người ta nói bậy mà tội chết." Cực kỳ đơn thuần như vậy. Có
lần, thấy mẹ cung kính với một chú mới tu, có người bảo "mệ đừng làm vậy vì chú
còn nhỏ" thì mẹ bảo "Dạ ... thì bây chừ chú còn nhỏ nhưng mai sau chú tu chú
cũng thành thầy, thành Phật vậy."
Mẹ vốn không biết đọc kinh, không học hỏi đạo lý.
Nhưng
mẹ sống với Phật và với chỉ một câu niệm Phật cho cả một đời thôi mà nhìn ai tu,
mẹ cũng thấy ở người đó, một vị Phật đang thành, sẽ thành. Có
lẽ, cái tâm cực thuần của mẹ cho mẹ thấy ra như vậy chứ mẹ nào có biết, đó chính
là cái thấy của Bồ Tát; và người tu đạo, học đạo trọn đời cũng chỉ để làm sao có
được cái thấy như vậy mà thôi. Cái tâm đơn thuần. Cái sống của mẹ cũng đơn thuần
rất mực. Cả đời, mẹ chẳng biết xa hoa là gì.
có thể, đó là do cái nghèo đã đeo đẳng mẹ suốt đời.
Nhưng không hẳn vậy. Không biết thuở nhỏ và sau này, từ khi tôi bỏ xứ ra đi, mẹ ra sao.
Chứ trong những tháng ngày ít ỏi sống với mẹ - hoặc tôi không nhớ - nhưng chưa
bao giờ tôi thấy mẹ mặc một chiếc áo dài nào khác ngoài chiếc áo dài màu xanh
lam. Chiếc áo đó, mẹ mặc để ngồi niệm Phật, để đi lễ
chùa. Cũng chiếc áo đó, mẹ mặc mỗi khi kỵ giỗ, hội họp
bà con hoặc phải đi đâu. Trong khi, đâu phải là mẹ
không có những chiếc áo dài khác.
Phấn
son thì chắc là chuyện không bao giờ có với mẹ. còn cái ăn cái uống của mẹ, không kể những năm tháng đói
lạnh, thì chẳng khác gì của một ông thầy tu ở núi ngày xưa.
không
cao lương mỹ vị đã đành, mà thảng hoặc, bữa nào có miếng cá miếng thịt, mẹ cũng
chỉ chan một chút nước cho những người chung quanh khỏi buồn mà thôi. Một dĩa
rau với chén nước chấm là như đã quá đủ cho mẹ, ngay cả sau này khi có điều kiện
để ăn
ngon hơn. Từ bao giờ, mẹ chẳng có của cải riêng - hay có mà mẹ
đã cho hết các chị em tôi khi đi lấy chồng rồi, tôi không biết.
còn bây giờ, kể từ khi đi vào sống ở Nam, thì mẹ thực
sự chẳng có gì gọi là của mẹ. Chẳng nhà cửa. Chẳng ruộng nương vườn tược.
có chăng, là những nấm mộ của ông bà nội ngoại và của ba tôi ở tận quê nhà Quảng
Trị mà mỗi năm, dù già yếu (năm nay đã 90 tuổi) mẹ vẫn về để thăm viếng và tự
tay chăm sóc. Trước đây thì thỉnh thoảng, sau này đều đặn hơn, mỗi năm hai lần,
tôi gởi quà và ít tiền về dâng mẹ. Nhiều người quen qua
đây nói, quà thì mẹ chỉ giữ lại chai dầu xanh và ít thứ thuốc cần dùng những khi
trái gió trở trời; còn thì đem cho hết các con, các cháu.
Tiền
thì mẹ để một phần đem cúng dường các chùa, một phần thì san sẻ cho "đứa nào"
trong các con, cháu bị sa cơ túng thiếu, và một phần khác nữa thì để bố thí cho
những kẻ nghèo khó quanh mình và đóng góp việc làng, việc họ. còn riêng mẹ, mẹ nào có biết tiêu gì cho mẹ đâu.
Mấy năm trước, tôi muốn mẹ về ở một ngôi chùa nào đó để "gần" với cảnh Phật hơn.
Sư cụ Tuệ Ðăng, quý Thầy Huệ Minh, Phước Trí, Ðạt Ðức ... đều sẵn lòng mong và
dành chỗ cho mẹ về ở. Nhưng mẹ không chịu, ngại làm phiền quý thầy, quý chú mà
tội; lại vì không nỡ xa con cháu. Thôi thì, tôi nghĩ, mẹ đã ở với Phật ngày đêm;
chỉ còn chút "nợ" với con cháu để an ủi tuổi già nên thôi, không tính chuyện để
mẹ lên chùa ở nữa.
Mẹ vốn không học. Chữ nghĩa Thánh
Hiền với mẹ là một cái gì cao xa vời vợi. Suốt đời, mẹ
lặng lẽ sống, không bao giờ bàn chuyện thế sự, thị phi của ai đến độ tôi tưởng
như mẹ không biết chuyện gì trên đời này cả.
Ngay với tôi, trong những lúc dầu sôi lửa bỏng của cái thời "Phật Giáo đấu
tranh", mẹ có nghe người ta nói tới đấy.
Nhưng
khi gặp, mẹ cũng chẳng bao giờ hỏi han để coi sự thế đi về đâu, trong đó có con của mẹ.
Mẹ chỉ thắp nhang mỗi sớm tối để cầu nguyện mà thôi.
Thảng hoặc, có la rầy con cháu thì cũng chỉ một lời. Và cái lời gần như
duy nhất mà tôi nghe được nhiều lần là "làm người thì lo tu thân
vi bổn, nghe con!" Bốn chữ "tu thân vi bổn" ở ai thì nghe sách vở văn hoa
nhưng ở mẹ sao tự nhiên như hơi thở, như cái ăn
phải có để sống, nhẹ nhàng mà trầm thống chi lạ. có lẽ,
đó là chữ nghĩa Thánh Hiền duy nhất trong đầu mẹ mà tôi được biết.
Còn chuyện dựng vợ gả chồng cho các anh chị em của tôi, tôi không biết trong âm
thầm mẹ lo như thế nào. Chỉ biết có một lần, tôi nghe mẹ dặn dò với một ai trong số mà tôi
không còn nhớ "Này con, con mà thương ai thì đừng bỏ người ta mà tội chết nghe
con!" Hỡi ơi! Cái tâm cực thuần cho mẹ nhìn ai cũng thấy Phật, cũng thấy là quý để
chẳng nghĩ đến "người ta" là xấu hay tốt mà chỉ sợ "người ta" khổ mà con mình
nên tội.
Những quan niệm, lề thói suy nghĩ, toan tính của thế hệ những
người như mẹ như để dành cho ai khác. còn mẹ thì
như chỉ nghĩ đến cái tội, cái phước để mong con mình sống làm sao cho Phật Trời
đừng bắt tội là đủ. Ðã 18 năm rồi tôi bỏ xứ ra đi, xa mẹ.
Mười tám năm.
Thời
gian như cơn gió chiều hun hút, nào biết thổi về đâu! Mười tám
năm. Gần một phần tư của đời người.
tôi biết, mười tám năm mẹ trông ngóng từng giờ, tôi về.
Những lúc sau này, hẹn trước, tôi gọi điện thoại để mẹ con nghe được tiếng nói
của nhau. Và lần nào cũng như lần nào, mẹ chỉ hỏi một câu: "Chừng nào
thầy về cho mẹ chộ một chút." Tôi điếng người mà nói với mẹ: "Dạ ... sớm muộn gì
rồi con cũng về.
Mệ niệm Phật nghe." Rồi thôi. Mẹ không nói gì thêm nữa.
Tôi cũng chẳng còn biết nói gì thêm nữa cho mẹ an tâm.
Lại cũng khi nào, có người về thăm, gặp mẹ sang đây cũng chỉ một lời nhắn nhủ đó
của mẹ cho tôi. Chừng nào thì thầy về cho mệ chộ một chút! Chừng nào! Ðã rất
nhiều khi, tôi muốn bỏ hết tất cả nơi đây để trở về với mẹ - không phải chỉ để
mẹ "chộ một chút" mà là để sống với mẹ những ngày cuối cùng của đời mẹ. Tôi chỉ
muốn được làm một người con chăm sóc mẹ mình như bất cứ một người con nào khác
trên đời. Mấy năm trước, có Phật sự ở Thái Lan, nghĩ
đến khoảng cách chưa đầy một giờ máy bay, tôi đã muốn về thăm mẹ.
Nhưng
rồi, chẳng phải vì lý do bên ngoài nào mà chỉ vì, nghĩ đến mẹ, nghĩ đến mình
phải sống làm người chân thật, ngay thẳng không được quanh co dối trá với ai
chuyện gì như lòng mẹ mong muốn mà tôi đã ngậm lòng không về.
Mười tám năm. tôi từng ôm mộng đi giữa đời, sống
cho một chút hồi vọng nào đó với cả tấm lòng mà nhìn lại, lại chỉ thấy một cõi
mù bay. Tôi đã ở bên lề những trò chơi của triết lý, văn chương, của những nỗi
khổ siêu hình nào mà một thời tâm thức tôi thường vẽ ra; ở bên lề cả những trò
chơi với đủ thứ pháp tướng ít nhiều dính dáng tới Phật Giáo trong cơn hỗn mang
của thế sự như phù vân lai khứ này. Nhưng trong "nỗi riêng, riêng cả đến tình
chung" đó, tôi đã luôn có mẹ trong tôi như có Phật trong tôi.
Ðể cho tôi lớn lên được giữa thời ngửa nghiêng này của thế đạo nhân tâm trong
từng bước đi quyết định của đời mình, để nuôi dưỡng tấm lòng tôi với Ðạo, với
quê nghèo và với những kẻ bất hạnh trên đời.
Tôi mà có làm được chút gì cho ai bớt khổ thêm vui trong suốt cuộc đời này, dù
nhỏ như cây kim, cọng cỏ thì đó cũng là vì có mẹ trong tôi như có Phật
trong tôi mà thôi. Và vì vậy mà tôi biết, sẽ có một ngày, tôi
bỏ lại tất cả nơi đây để về với mẹ. tôi chỉ xin lạy Phật ngàn lạy, vạn lạy mà cầu cho ngày đó đến
trước khi quá muộn.
Thích Nguyên Hạnh
Cua Tung