Phật giáo và văn hóa Trung Quốc

Phật giáo, vốn là một nền văn hoá đến từ nước ngoài, đã trải qua ba giai đoạn phát triển chính ở Trung Quốc. Giai đoạn đầu, Phật giáo phát triển bằng cách dựa vào văn hoá truyền thống Trung Quốc là Khổng giáo và Lão giáo. Giai đoạn kế tiếp, Phật giáo có sự xung khắc với hai tôn giáo Khổng và Lão. Và cuối cùng là giai đoạn Phật giáo hoà nhập vào văn hoá truyền thống Trung Quốc. Mỗi tiến trình phát triển Phật giáo ở Trung Quốc, theo cách này hay cách khác, là tiến trình bản địa hoá Phật giáo. Phật giáo được người Trung Quốc đón nhận nhiệt thành không chỉ vì bản tính cởi mở của người dân ở đất nước này, mà cũng vì Phật giáo là một tôn giáo phong phú và đa sắc, có thể bổ sung thêm cho nền văn hoá truyền thống Trung Quốc.

Khi được truyền vào Trung Quốc, Phật giáo được xem như một hình thức của Lão giáo. Điều này bởi vì những tăng sĩ nước ngoài truyền bá Phật giáo vào Trung Quốc thường sử dụng những học thuyết của Lão giáo và Khổng giáo để giải thích Phật giáo. Suốt thời Nam Bắc Triều, Phật giáo nỗ lực tách ra khỏi Khổng giáo và Lão giáo. Sự tranh luận giữa Phật giáo và những tôn giáo truyền thống Trung Quốc đã thường xuyên xảy ra, về những câu hỏi như “linh hồn thường hằng hay không thường hằng” “có tồn tại nhân quả hay không” và “tăng sĩ có nên bái lạy hoàng đế hay không”.v.v..

Trong suốt hai triều Đường và Tống, Phật giáo bắt đầu tiến trình bản địa hoá của mình. Từ đó Khổng giáo, Phật giáo và Lão giáo, ba trường phái triết học chính, đã cũng nhau phát triển và hình thành nên một khía cạnh mới trong xã hội Trung Quốc. Khổng giáo đã tiếp thu rất nhiều từ Phật giáo và khai sinh nên Tân Nho. Tương tự, Lão giáo cũng vay mượn giáo thuyết Phật giáo và mở đường cho các trường phái mới như Kim Chân Đạo (全真道) và Thái Nhất giáo (太一教) hình thành. Phật giáo cuối cùng đã hoàn thành việc bản địa hoá của mình và trở thành thành tố chính và quan trọng trong văn hoá truyền thống Trung Quốc.

Phật giáo đã có sự ảnh hưởng sâu rộng vào văn hoá Trung Quốc cùng với tiến trình bản địa hoá của nó. Sự dung hợp triết học Phật giáo và triết học cổ đại Trung Quốc đã đưa đến một vấn đề mới và phương pháp mới cho việc phát triển triết học. Bài viết này tập trung vào sự ảnh hưởng của khái niệm luân hồi Phật giáo vào những nguyên tắc đạo đức của người Trung Quốc, việc chuyển dịch kinh sách Phật giáo đã giúp phát triển văn học cổ đại Trung Quốc, và sự ảnh hưởng của Phật giáo đối với nghệ thuật Trung Quốc.

* * *

Những nhà truyền đạo Phật giáo đã dựa vào văn hoá truyền thống Trung Quốc khi truyền bá Phật giáo vào quốc gia này. Trong suốt thời kỳ đầu, các tăng sĩ Phật giáo nước ngoài đã nỗ lực truyền bá Phật giáo vào Trung Quốc bằng việc vay mượn những học thuyết của Lão giáo để giải thích học thuyết Phật giáo, hoặc thể hiện những phép thuật để thu phục tín đồ. Điều này khiến cho người Trung Quốc thời ấy xem Phật giáo như một hình thức của Lão giáo. Những tăng sĩ Phật giáo đầu tiên thường giảng giải kinh Phật bằng việc liên hệ với những thuật ngữ Lão giáo như “vô vi” và “vô cực”. Đây là một sự giải thích không thích đáng đã khiến cho những người Trung Quốc thời ấy hiểu học thuyết Phật giáo tương đồng với tư tưởng Lão giáo.

Vào thời kỳ đầu, Phật giáo cũng dựa vào Khổng giáo. Vào thời Tam Quốc (220-265), một vì tăng đã trả lời rõ khi có người hỏi ông về học thuyết nhân quả của Phật giáo. Câu trả lời của ông cho thấy giống với những gì được nói trong sách Chu Dịch: “một người làm điều thiện, hạnh phúc sẽ đến với gia đình của người đó; một người làm điều ác, tai hoạ sẽ giáng xuống gia đình người đó trong tương lai.” Qua việc trả lời như vậy, ông đã thực hiện một sự so sánh giữa Phật giáo và Khổng giáo.

Thực ra, học thuyết của Khổng giáo về nhân quả được dựa trên khái niệm “Thiên đạo”, luật tự nhiên. Theo Khổng giáo, sự báo ứng thực sự không đến với bản thân người tạo tác mà đến với toàn thể gia đình của người ấy. Còn theo Phật giáo, người ta sẽ gặt lấy những gì mà người ta đã gieo. Hạnh phúc hay khổ đau là từ hành động của chính mình. Đây là sự khác biệt cơ bản giữa hai truyền thống. Khương Tăng Hội cũng dịch và hiệu đính Lục Độ Tập Kinh bằng cách liên hệ khái niệm từ bi của Phật giáo với khái niệm nhân của Khổng giáo để tương thích với những nguyên tắc đạo đức và chính trị của tôn giáo này.

Mãi cho đến thời Nam Bắc Triều, với các kinh sách của tất cả các trường phái Phật giáo Ấn Độ được truyền vào và được chuyển dịch có hệ thống ở Trung Quốc, Phật giáo đã thay đổi phương cách vay mượn văn hoá truyền thống Trung Quốc ở giai đoạn đầu, và bắt đầu có sự tranh luận với nền văn hoá này. Sự tranh luận được thực hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là về những vấn đề như “tăng sĩ Phật giáo có phải bái lạy hoàng đế hay không,” “linh hồn vĩnh hằng hay không vĩnh hằng” và “nhân quả có tồn tại hay không”.v.v.

Tăng sĩ Phật giáo có phải bái lạy hoàng đế hay không là một câu hỏi liên quan không chỉ đến phép tắc tôn giáo mà cũng liên quan đến đạo đức chính trị. Từ các triều đại Đông và Tây Hán, việc phục vụ vương quốc và hoàng đế, cũng như việc phụng thờ cha mẹ là những điều rất mực được đề cao trong văn hoá phong kiến Trung Quốc. Hình thức đề cao gia tộc và nhà nước này, tất nhiên, trái ngược với lối sống của các tăng sĩ Phật giáo - những người từ bỏ đời sống thế tục, vượt qua những quy ước thế tục và du hành nay đây mai đó.

Theo Khổng giáo, Phật giáo là một tôn giáo xem nhẹ việc phụng thờ mẹ cha và tôn kính hoàng đế cũng như những vấn đề quy ước khác. Sự tranh luận giữa Phật giáo với Khổng giáo và Lão giáo tồn tại mãi cho đến cuối đời nhà Đường. Cuối cùng Phật giáo đã thua thế, và họ không có sự chọn lựa nào khác ngoài việc chấp nhận khái niệm quân vương như pháp vương. Vì vậy Phật giáo buộc phải từ bỏ truyền thống, rằng các tăng sĩ Phật giáo không cần phải bái lạy hoàng đế và cha mẹ của họ.

Học thuyết ba thời nhân quả của Phật giáo được đặt cơ sở trên học thuyết duyên khởi. Theo Phật giáo, con người là một sự kết hợp của năm yếu tố (ngũ uẩn), và không có một linh hồn hay một thực thể thường hằng tồn tại phía sau. Tuy nhiên, do vì người Trung Quốc về truyền thống có niềm tin vào quỷ thần nên đã cho rằng học thuyết ba thời nhân quả mà Phật giáo chủ trương nhằm truyền bá lý thuyết về sự bất tử của linh hồn sau khi chết. Ngay cả những người thành thạo Nho học khi tìm hiểu Phật giáo đã không hiểu đúng về giáo lý nhà Phật. Huệ Viễn, một tăng sĩ nổi tiếng đời Đông Tấn, đã chủ trương sự bất tử của linh hồn, điều gây nên một sự tranh luận kéo dài về vấn đền linh hồn bất tử hay không bất tử.

Tranh luận sôi nổi giữa Phật giáo và Lão giáo cũng là một sự kiện kéo dài vào thời đó. Bởi vì, về phương diện học thuyết có sự khác nhau giữa Phật giáo và Lão giáo, nên đã tạo nên những đối nghịch trong một số khía cạnh. Các tăng sĩ Phật giáo và các Đạo sĩ luôn tranh luận về tính ưu việt của tôn giáo mình, và theo đó mong tìm một vị trí cao hơn trong đời sống xã hội về phương diện chính trị. Nhằm làm tăng tính ưu việt của tôn giáo mình, một số Đạo sĩ vào đời nhà Tấn đã soạn nên cái gọi là “Thái Thượng Linh Bảo Lão Tử Hoa Hồ Diệu Kinh” (太上靈寶老子化胡妙經). “Kinh” này nói rằng người sáng lập Lão giáo là Lão tử đã đi về phía tây (ở đây có nghĩa là Ấn Độ); và sau khi nhận Sakyamuni làm đệ tử, Lão Tử đã khuyên ngài thành lập Phật giáo. Để đáp trả lại, các tăng sĩ Phật giáo cũng soạn nên một bản kinh để chống lại Lão giáo. Cuốn “kinh” này nói rằng đức Phật đã từng phái ba đệ tử của Ngài sang Trung Quốc để giáo hóa. Bồ-tát Nho Đồng (Rutong) là Khổng Tử, Bồ-tát Quán Âm là Dương Nguyên và Đại Ca Diếp là Lão Tử. Sự tranh luận kéo dài cho đến cuối đời nhà Đường.

Phật giáo dung hoà với văn hoá truyền thống Trung Quốc từ đời Đường đến đời Tống. Từ đó, Tam giáo Phật, Nho và Lão đã cùng nhau phát triển; và việc ba tôn giáo dung hoà với nhau đã tạo nên một khía cạnh mới. Ngài Đạo An đời nhà Tấn nhận xét: “không có sự khác biệt giữa ba tôn giáo, vì cả ba tôn giáo đều chủ trương những điều thiện lành. Về học thuyết, những phương thức mà mỗi tôn giáo ứng dụng là khác nhau, tuy nhiên cả ba có một vài điều chung.” Trí Viễn vào đời nhà Tống thì cho rằng: “Khổng giáo tốt cho thể chất, và Phật giáo tốt cho tinh thần.” Vì vậy ông chủ trương rằng cả Khổng giáo và Phật giáo có thể bổ sung cho nhau và làm lợi ích lẫn nhau.

Theo cách này hay cách khác, điều này cho thấy Phật giáo có sự mong muốn tạo hoà hợp với Khổng giáo và Lão giáo. Điều được gọi là “Tam giáo đồng nguyên” đã trở thành một dòng chính của hiện tượng xã hội. Khổng giáo, sau khi tiếp nhận tư tưởng Phật giáo, đã hình thành nên một loại triết học mới – Tân Nho. Lão giáo cũng đã thực hiện điều tương tự. Sau khi tiếp nhận những tư tưởng từ Phật giáo, đã có sự xuất hiện những trường phái mới ở trong Lão giáo, như Kim Chân Đạo và Thái Nhất giáo. Đồng thời, Phật giáo cũng đã hoàn tất tiến trình bản địa hoá của mình và trở thành thành tố quan trọng nhất của văn hoá truyền thống Trung Quốc.

Với tiến trình bản địa hoá, Phật giáo đã thâm nhập vào những khía cạnh khác nhau của văn hoá Trung Quốc và đã ảnh hưởng sâu rộng vào nền triết học của quốc gia này. Sự hoà quyện triết học Phật giáo và triết học truyền thống Trung Quốc đã thúc đẩy một sự phát triển mới cho nền triết học ở đây. Tân Nho đã chịu ảnh hưởng Phật giáo một cách sâu sắc. Điều thấy rõ là những khái niệm triết học mà Tân Nho đặt ra đã chịu ảnh hưởng sâu sắc những khái niệm của Phật giáo. Ví dụ, những khái niệm như “thanh tâm” “chân tâm” “bình tâm” “vạn vật trong thế giới này bao gồm con người có một ‘thái cực’”, và “hiện tượng giới có thể khác nhau nhưng nguyên nhân chỉ một”, là tương đồng với những khái niệm Phật học như “với một tâm thức sáng tỏ, người ta có thể nhận chân chân lý” và “tức tâm tức Phật.” Do đó, chúng ta có thể nói rằng học thuyết Tâm Tính Luận của Tân Nho là thừa kế học thuyết Phật tính của Phật giáo.

Phật giáo cũng ảnh hưởng sâu sắc vào văn học Trung Quốc. Tiến trình chuyển dịch kinh sách từ tiếng Sanskrit sang Hán ngữ đã tạo nên một sự phát triển mới cho thi ca, văn xuôi và tiểu thuyết Trung Quốc. Những tiểu thuyết vào các đời nhà Tấn và Đường đã lấy cảm hứng rất nhiều từ những kinh Phật như Duy Ma Cật, Pháp Hoa và Bách Dụ. Những khía cạnh tư tưởng của kinh Bát Nhã và Thiền tông đã có sự ảnh hưởng lớn vào những thi nhân Trung Quốc cổ đại như Đào Uyên Minh, Vương Vĩ, Bạch Cư Dị và Tô Thức. Biện văn (變文- một hình thức phổ biến của văn học kể chuyện thịnh hành vào đời Đường, với văn xuôi xen kẻ và những phần được gieo vần cho việc ngâm tụng và hát xướng) và những trích dẫn của Thiền tông có một sự liên hệ mật thiết với văn học quần chúng Trung Quốc. Phiên thiết (反切) trong ngôn ngữ Trung Quốc thực sự được phát triển do sự ảnh hưởng ngữ âm của Sanskrit. Theo một thống kê chưa đầy đủ, với việc chuyển dịch kinh sách sang Hán ngữ, Trung Quốc đã có thêm 35.000 từ và thuật ngữ mới, điều này rõ ràng đã làm cho văn hoá và ngôn ngữ của Trung Quốc vô cùng phong phú.

Phật giáo cũng ảnh hưởng vào nghệ thuật cổ đại Trung Quốc ở nhiều khía cạnh. Kiểu thức kiến trúc chùa tháp ở Trung Quốc cho thấy văn hoá Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc vào kiến trúc Trung Quốc. Những câu chuyện Tiền thân thường là những đề tài hay cho các nghệ sĩ cổ đại Trung Quốc vẻ. Hội hoạ Trung Quốc truyền thống cũng chịu ảnh hưởng Thiền Phật giáo. Âm nhạc Phật giáo cũng ảnh hưởng vào âm nhạc Trung Quốc. Phật giáo cũng có sự ảnh hưởng sâu sắc vào thiên văn học và y học của Trung Quốc. Có một số khía cạnh về y học và dược phẩm được đề cập trong kinh tạng. Theo những quyển sách lịch sử của hai triều Tuỳ và Đường, có trên mười quyển sách y học và dược phẩm được dịch từ ngôn ngữ Ấn sang Hán.

Từ những thảo luận ở trên chúng ta có thể thấy rõ rằng thông qua sự giao thoa văn hoá giữa Trung Quốc và Ấn Độ vào thời cổ đại, Phật giáo đã có sự ảnh hưởng sâu rộng vào những khía cạnh khác nhau của văn hoá Trung Quốc.

Trần Gia Hoa (Cheng Jiahua) - Nguyên Hiệp dịch

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle