Tác giả: Cao Huy Hóa
Về phần chúng tôi, dầu
thời gian ở Lagi không nhiều, nhưng dấu chân trên cát đã được lưu giữ trong tâm
hồn như là kỷ niệm những ngày đầu xuân thấm đượm hương vị của biển, của nắng gió
và nhất là đậm đà tình cảm của người thân lâu ngày gặp lại, và của cả những
người sơ ngộ.
Đối với người bình thường
ở mọi miền đất nước, Lagi chưa là địa danh quen thuộc, ít ai đặt chân đến vùng
này. Tuy nhiên, Lagi cũng như
hầu hết dãi đất ven biển của tỉnh Bình Thuận đã càng ngày càng sáng lên trên bản
đồ du lịch, hấp dẫn du khách vì biển xanh, hiền hòa, ấm áp quanh năm, nhất là du
khách Nga ở xứ lạnh giá nên rất thèm biển. Ngay cả người Sài Gòn, không còn
quanh quẩn ở biển Vũng Tàu, mà đã đến vùng biển này, với những resort, những khu
du lịch hấp dẫn chạy dài, những địa danh ngày càng nổi tiếng như Kê Gà, Mỏm Đá
Chim, Dinh thầy Thím, Tà Cú,...
Lagi có cái gì hay hay,
ngay cả tên gọi. Chữ viết là Lagi hay La Gi, đọc là La-Di. Phải chăng địa danh xuất xứ từ tiếng Chăm? Tôi hỏi những
người quen ở đây thì cũng đồng ý như thế; có người cho rằng, theo người Chăm,
chữ Tà chỉ núi (như Tà Cú, Tà Mon, Tà Dôn...), chữ La chỉ sông (như La Ngà, La
Ngâu, Lagi..., Sông Dinh là sông lớn nhất chảy qua Lagi).
Mảnh đất xa xưa đầy huyền
thoại Chăm giờ đây là đất lành của những người định cư lâu đời lẫn những người
tứ xứ. Người
ở lâu đời gồm người Chăm và người các dân tộc thiểu số khác, người di dân suốt
chiều dài lịch sử Nam tiến.
Người đến sau này do chạy thoát chiến tranh ác liệt, cũng như do hoàn cảnh lịch
sử: dân di cư từ miền Bắc, trong đó đáng kể là đồng bào theo Thiên Chúa giáo,
Việt kiều hồi hương từ xứ sở Chùa Tháp, dân chạy nạn chiến tranh từ sau năm 1973
từ các tỉnh miền Trung, nhiều nhất là từ Quảng Trị, dân đến định cư làm ăn sau
ngày đất nước hòa bình, thống nhất.
Lịch sử di dân từ xa xưa
đã truyền tụng lại hai nhân vật được tôn thờ cho đến ngày nay, đó là vợ chồng
Thầy Thím: "Theo sự tích, Thầy Thím quê gốc ở Điện Bàn (Quảng Nam), đức tài
vẹn toàn. Dưới thời vua Gia Long năm thứ 2, gia đình Thầy bị
kết tội tử hình oan. Trước giờ thi hành án, Thầy được
vua ban một tấm lụa đào để múa từ biệt vua.
Theo truyền thuyết, tấm lụa quấn lấy Thầy Thím và đưa vợ chồng Thầy bay vào
phương Nam. Đến ngảnh Tam Tân (xã Tân Tiến, thị xã La Gi, Bình Thuận ngày nay),
Thầy Thím cải trang thành một dân thường, từ đó Thầy giúp đỡ dân nghèo ở đây
bằng cách bốc thuốc chữa bệnh, đóng ghe thuyền giúp ngư dân, khẩn khai đồng
ruộng. Những năm sau ngày Thầy Thím mất, cứ mùng 5 tháng Giêng
lại có hai con hổ về mộ Thầy thăm, rồi lại buồn bã ra đi. Biết ơn công
lao
Thầy Thím, dân làng đã lập đền thờ Thầy và thờ cả hai con hổ. Tiếng lành đồn xa,
năm 1906 (đời vua Thành Thái năm thứ 18) vua đã hủy bỏ bản án
oan trước đây và sắc phong Thầy "Chí đức Tiên sinh, chí đức Nương Nương Tôn thần".
|
Lagi cũng như hầu hết
dãi đất ven biển của tỉnh Bình Thuận đã càng ngày càng sáng lên trên bản đồ
du lịch, hấp dẫn du khách vì biển xanh, hiền hòa
|
Ngày nay, lễ hội Dinh
Thầy Thím (lễ chính vào ngày rằm tháng 9 âm lịch) đã trở thành nét văn hóa
truyền thống của không chỉ riêng người dân địa phương mà còn thu hút hàng trăm
nghìn lượt du khách khắp nơi về xin lộc ơn phước của Thầy mỗi năm."1
Ngoài dinh Thầy Thím,
vùng Lagi còn có một điểm tham quan độc đáo là ngọn hải đăng Kê Gà. Đây là ngọn hải đăng
thuộc loại cổ nhất và cao nhất nước ta, nằm trên một hòn đảo gần bờ, gọi là mũi
Kê Gà, ở phía Nam và cách thành phố Phan Thiết 40 km, bằng đá, hình bát giác,
được người Pháp xây dựng từ năm 1897 đến năm 1899, cao 66 mét (kể từ mặt biển
đến ngọn đèn). Ban đêm, đèn có thể phát sáng xa đến 22 hải lý (khoảng 40 km)
giúp tàu thuyền đi qua vùng biển này2.
Ngọn hải đăng sừng sững
giữa trời biển xanh bao la, giữa một quần thể đá trần trụi nhiều dáng vẻ. Sẽ thiếu sót nếu tôi không nói đến Hòn Bà, một đảo nhỏ hình con
rùa ngoài khơi, khá gần (cách bờ khoảng 2 cây số) để mỗi lần ngắm biển, ta có
thể thấy những cây cổ thụ xanh mờ xa xa; trên đảo có một ngôi đền thờ nữ thần
Thiên Y A Na, cũng như có thờ tượng Phật Thích Ca, tượng Phật Bà Quan Âm.
Vùng ven biển đầy nắng
gió và hẻo lánh này, giờ đây đã trở thành một thị xã phồn thịnh, một thị xã có
xe taxi phục vụ ngày đêm. Kinh tế mạnh là nhờ biển: biển cho hải sản dồi
dào, phong phú, biển với bãi cát tốt và nắng ấm quanh năm làm cho ngành du lịch
phát triển. Ấn tượng đối với tôi, dĩ nhiên là biển, là nắng
gió đầu xuân thật nhẹ nhàng, cho chúng tôi được sống thoải mái, xa rời những
chuyện thế sự.
Một ấn tượng nữa là
cây thanh long.
Những cánh đồng thanh
long dài tít tắp, cây thanh long xanh ngắt bám rễ vào cột xi măng, vươn cao, tỏa
rộng rồi thả mình lơ lửng, có nơi mới trồng, có nơi bắt đầu cho hoa, rung rinh
trong nắng, tương tự hoa quỳnh - chỉ khác là hoa quỳnh nở ban đêm -, có nơi đã
cho trái, làm cho hai màu xanh đỏ của lá và trái tương phản đậm nét dưới ánh mặt
trời. Cây trái đã đãi đằng con người, thế mà con người còn muốn cây thêm năng
suất, bằng cách cho đèn điện chiếu sáng, đánh lừa thanh long, lấy đêm làm ngày.
Chỉ có mấy ngày đến thăm
Lagi, nhưng tôi cũng ghi nhận được vài nét đặc biệt của thị xã này. Dân miền biển da hơi ngăm ngăm, tính thật thà; giá sinh hoạt nơi đây
nếu không vì kinh tế thị trường của ngành du lịch biển thì chắc là rẻ lắm.
Dầu giá cả như thế nào thì bát cơm, tô canh, đĩa cá... thể hiện tính chất no đầy
của nó, không đẹp đẽ cầu kỳ như kiểu một số quán ăn đất kinh kỳ dọn chén đĩa
lớn, màu mè mà thực chất chẳng bao nhiêu. Ly cà phê cũng thế,
đậm đà và dung tích đáng kể chứ không phải chút chút trên đáy, còn ly trà
Lipton, nặng trịch với trái cam to bổ đôi.
Một điều lạ là nhiều quán
ăn
dùng đĩa thức ăn để đựng nước chấm, chứ không dùng chén nhỏ. Có thể sống trong
điều kiện thiên nhiên khoáng đạt và ưu đãi như thế, với một trình độ tổ chức xã
hội chưa cao, con người có khuynh hướng sống mộc như bản tính chân thật của
mình, cứ như tự nhiên mà sống. Đó là nếp sống của những cư dân lâu đời, của những đồng bào dân tộc
gắn liền mảnh đất này từ xa xưa; có như thế đây mới là đất lành hội tụ biết bao
người từ mọi miền đất nước.
Tuy nhiên, ấn tượng của
chúng tôi về thị xã miền biển này càng đẹp thêm nếu không có chuyện rác, chuyện
túi ni lông được xả thoải mái khắp nơi, từ cửa hàng cà
phê đến bãi biển, từ con suối đến vệ đường. Biển Lagi quả thật như một dung nhan
thiếu chăm chút!
Như có duyên may, một vị
sư trẻ người Quảng, vốn hành điệu ở Huế, năm 1990, đã dừng bước bên con suối
Đó vắng vẻ, cảnh quan đơn sơ, cách khá xa trung tâm Lagi. Tên con suối cũng
lạ, theo như một người sở tại cho biết: Suối chảy qua
nhiều tảng đá to nên được đặt tên là suối Đá; sau này dân Quảng vào định cư ở
gần con suối, phát âm tên suối gần như là Đó, cho nên sau này dân quen gọi là
suối Đó. Thầy đã tậu được đám đất nơi này và ban đầu dựng một thảo am, thầy cao
hứng đặt tên là chùa Đây, "Chùa Đây - Suối Đó nằm ru hát thiền"3.
(Tên chính thức của chùa là Thanh Trang Lan
Nhã). Từ đường chính vào chùa, du khách như đi vào một khu
rừng im vắng, mát mẻ.
Chùa không lớn, nhiều công trình dở dang, và công trình chính
là ngôi chánh điện thì mới phần móng. Thế nhưng sân
chùa vẫn là không gian thơ. Thơ của thầy và thi hữu, được viết trên...
bia thơ, đó là những tấm bê tông như giả lát cắt của thân cây cổ thụ, đặt
trên bệ xây, phía sau là hàng tre vàng rất đẹp.
Ngoài chuyện thơ, thầy có
tham vọng tạo một nơi được gọi là "bảo tàng văn hóa" cho mọi người, và trước mắt
thầy sưu tập được một số hiện vật quý. Thầy có duyên với các chùa miền Bắc, thầy
đã thỉnh về nhiều cổ vật: phù điêu, đồ gốm, gạch... thời Lý Trần, đặc biệt thầy
cho trưng bày một hiện vật đồ gỗ mà theo thầy là cọc mà
Đức Hưng Đạo đại vương cho đóng trên sông Bạch Đằng trong trận thủy chiến với
quân nhà Nguyên. Hiện vật văn hóa bao gồm cả các đồ dùng sinh hoạt xưa: cơi
trầu, ống nhổ, bình vôi, con dao bổ cau, chiếc quạt tre mà người mẹ đã dùng thuở
sinh thời... Trên điện, thầy tôn trí theo cách các chùa dân gian phía Bắc: ngoài
tượng Phật, có rất nhiều tượng... kể cả Ngọc Hoàng thượng đế, Thập điện minh
vương, công chúa Liễu Hạnh, thiên lôi,...
Thực sự tôi lạ lẫm với
điện thờ như thế trong một ngôi chùa tại một địa phương phía Nam. Nhưng tôi đặc biệt chú ý tượng Ngài Địa Tạng, một tượng cổ mà thầy
thỉnh về từ chùa nào đó ở Bắc, bị sém mất một phần vai và thân. Ngoài
sân, thầy cho trưng bày một số cối xay, bên cạnh đó, tôi rất bất ngờ khi nhìn
thấy một tảng đá to trên đó in hai dấu chân; phải chăng đó là dấu chân của một
kẻ lãng du dừng chân bên suối một đêm trăng, như là một cơ duyên "Trăng về
suối Đó, bờ neo mảnh tình"4?
Về phần chúng tôi, dầu
thời gian ở Lagi không nhiều, nhưng dấu chân trên cát đã được lưu giữ trong tâm
hồn như là kỷ niệm những ngày đầu xuân thấm đượm hương vị của biển, của nắng gió
và nhất là đậm đà tình cảm của người thân lâu ngày gặp lại, và của cả những
người sơ ngộ.
Chú thích:
1 Theo Quang Nhân, báo
điện tử Binhthuantoday.com, 12/10/2011: Lễ hội Dinh Thầy Thím: Quy mô và
an ninh hơn.
2 Theo
http://tuoitre.vn/Ao-trang/248872/Hai-dang-ke-ga.html
3, 4 Thơ Đinh Hồi Tưởng