Thích Thái Hòa
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ
cũng thực hành pháp và chánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi
dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống ở trong chánh chánh pháp mỗi ngày.
Ta có thể nói về chánh pháp rất giỏi, vì ta đã có quá
trình tích lũy những kiến thức về chánh pháp từ học đường, từ thư viện, từ các
buổi hội thảo hay pháp đàm, nhưng thực hành chánh pháp để nhiếp phục phiền não
nơi tâm ta, để tâm ta thực sự có giới, có định và có tuệ, khiến cho chánh kiến
sinh khởi và có mặt ngay trong đời sống của ta, thì ta có thể chưa giỏi chút
nào?!
Ở trên trời dưới đất, ai là người có khả năng thấy pháp để
nói, thấy pháp để thực hành và đã thực hành đúng như những gì mình đã thấy và đã
nói? Người ấy không ai khác hơn là Phật.
Phật là người có Chánh kiến và Phật là người hiểu Chánh
kiến và Phật là người thể nhập với Chánh kiến, còn chúng ta tuy mang danh là
Phật tử, nhưng là những
người đang học về Chánh kiến, chứ chưa thể hiểu được rốt ráo về Chánh kiến.
Chánh kiến là do thực hành Giới Định Tuệ mà sinh khởi, chứ không phải do học hỏi
hay tích lũy kiến thức Phật học mà sinh khởi. Chánh kiến là do đoạn tận vô minh,
chấp ngã mà sinh khởi, chứ không thể sinh khởi từ nơi những tư duy chấp ngã.
Chấp vô ngã vẫn không phải là chánh kiến huống gì chấp ngã?!
Chánh kiến là phải thấy rõ sự thật về Khổ, thấy rõ sự thật
về Tập, thấy rõ sự thật về Diệt, thấy rõ sự thật về Đạo.
Ai là người thấy rõ sự thật về khổ? Chỉ có Phật mới thấy
rõ sự thật này.
Ai là người thấy rõ sự thật về Tập? Chỉ có Phật mới thấy
rõ sự thật này.
Ai là người thấy rõ sự thật về Diệt? Chỉ có Phật mới thấy
rõ sự thật này.
Ai là người thấy rõ sự thật về Đạo? Chỉ có Phật mới thấy
rõ sự thật này.
Khổ thì ai cũng thấy, nhưng thấy rõ sự thật về Khổ, thì
chỉ có Phật mới thấy, vì sao? Vì chỉ có Phật mới có Chánh kiến về Khổ, nên thấy.
Tập thì có nhiều vị thấy, nhưng thấy rốt ráo của sự thật
về Tập, thì chỉ có Phật mới thấy, vì sao? Vì chỉ Phật mới có Chánh kiến về Tập,
nên thấy.
Diệt thì cũng có nhiều người chứng nghiệm, nhưng chứng
nghiệm rốt ráo sự thật về Diệt, thì chỉ có Phật mới chứng nghiệm, vì sao? Vì chỉ
có Phật mới có Chánh kiến, nên chứng nghiệm rốt ráo sự thật về Diệt.
Đạo thì cũng có nhiều người thấy, nhưng thấy rốt ráo sự
thật về Đạo, thì chỉ có Phật mới thấy, vì sao? Vì chỉ Phật mới có Chánh kiến về
Đạo, nên thấy.
Vì không thấy rõ sự thật về khổ, nên khi khổ tới, ta rên
rỉ, than khóc, khiếp đảm, khi khổ đi qua, chúng ta quên và chứng nào tật nấy,
chúng ta vẫn tiếp tục cái phàm tục trong ta.
Nếu chúng ta thấy sự thật về khổ, thì vấn đề tu học của
chúng ta đã tiến bộ rất nhiều, nhưng vì chúng ta không thấy sự thật về khổ, mà
chỉ thấy khổ do các cảm giác bất như ý đem lại, nên các khổ thọ đi qua, chúng ta
hết thấy khổ và chứng nào tật nấy, chúng ta vẫn tiếp tục cái nghiệp cũ trong ta.
Nếu mình thấy được sự thật về khổ và nuôi dưỡng thường
trực cái thấy ấy, thì chúng ta hết khổ đã lâu rồi, nhưng vì chúng ta không thấy
thường trực sự thật về khổ, nên không bao giờ chúng ta hết khổ. Đôi khi chúng ta
lầm khổ là vui, lầm vui là khổ.
Thấy khổ, thấy tập khởi của khổ rồi, mà than thở cũng vô
ích, cho nên khi thấy tập khởi của khổ rồi, thì ta phải hạ thủ công phu mà tu
tập đạo đế. Đạo đế đã tu tập, thì diệt đế trước sau gì cũng có mặt trong ta.
Chúng ta là đệ tử Phật, chúng ta quy y Phật, quy y Pháp,
quy y Tăng và thọ trì năm giới, tức là chúng ta muốn diệt tận tập đế, để khổ đế
vĩnh viễn chấm dứt.
Cho nên, sự tu học phải có trạch pháp, phải có sự lựa
chọn. Chính sự lựa chọn là một trong những yếu tố tạo nên Chánh kiến.Vì vậy
trong chất liệu tạo nên người Phật tử, hoàn toàn không có chất liệu mê tín,
không có chất liệu cực đoan. Vậy, chúng ta là
Phật tử, chúng ta phải đào
tạo thế hệ kế thừa sự nghiệp Phật tử của chúng ta là chúng ta phải đào tạo như
thế nào?
Chúng ta phải đào tạo chính con cháu của chúng ta kế thừa
truyền thống cao đẹp của chúng ta; chúng ta phải biết tạo cơ duyên cho những ai
có cảm tình với sự tu tập chúng ta; và chúng ta phải biết thể hiện những gì tốt
đẹp, cao quý đến những người chưa biết chúng ta là Phật tử, để cho họ có những
cơ duyên hiểu biết về những gì cao đẹp của người Phật tử chúng ta, khiến cho họ
nếu chưa đủ cơ duyên để theo chúng ta, thì họ cũng có thể yểm trợ chúng ta và
nếu họ chưa có đủ cơ duyên để yểm trợ chúng ta, thì ít ra họ không gây trở ngại
hay chống lại chúng ta.
Người Phật tử chúng ta hãy lưu ý, ngoài những nhân duyên
liên hệ với chúng ta, không có ai chống đối chúng ta. Chống đối chúng ta, phần
nhiều đi từ những người đã từng có nhân duyên theo ta và ủng hộ chúng ta, chứ
không ai khác. Những người đi theo chúng ta, ủng hộ chúng ta, hoan hô chúng ta,
mà không có chánh kiến, không thực hành chánh pháp, thì trước sau gì những người
ấy cũng phỉ báng và chống lại chúng ta, chứ không ai khác. Đây là điều mà chúng
ta cần phải quán chiếu để thấy rõ sự thật trong từng nhân duyên của vấn đề.
Thấy rõ sự thật nhân duyên của từng vấn đề như vậy, gọi là Chánh kiến. Nếu thấy
mà không thấy rõ nhân duyên quả báo như vậy gọi là tà kiến. Khi một người bị rơi
vào tà kiến, thì càng giải quyết vấn đề là càng sai vấn đề, càng nói là càng
bậy, càng đi là càng lệch đường, càng đi là càng sai hướng, vì nhà ở hướng đông
mà đi về hướng tây là không bao giờ về đến nhà được.
Phật tử mà không có Chánh kiến thì làm sao thấy được ngôi
nhà giác ngộ của mình để đi về? Phật tử mà sợ hãi sự tu học, thì làm sao mà đi
tới được với ngôi nhà Phật Pháp?
Con cháu nghe nói về nhà cha mẹ, tổ tiên mà sinh tâm sợ
hãi, thì không phải là con cháu của trong gia đình nữa rồi. Cũng vậy, Phật tử
nghe nói đến sự tu học mà sợ hãi, thì chắc chắn đó không phải là Phật tử.
Chỉ vì không có Chánh kiến, nên không nhận ra được đường
tà nẻo chánh và vì do không thấy tà, nên không thể bỏ tà; không thấy chánh, nên
không thể theo chánh.
Tà thì ở đâu cũng có và lúc nào cũng có, vấn đề là ta có
thấy được đó là tà, thì ta mới từ bỏ được, chứ bảo thế gian đừng có tà, thì
không còn là thế gian nữa. Vấn đề thế gian hay xuất thế gian là không quan
trọng, mà quan trọng là thấy rõ sự thật về thế gian và xuất thế gian, để tu tập
và tồi tà phụ chánh. Khi thấy rõ sự thật của tà, thì mình bỏ tà một cách nhẹ
nhàng, bỏ tà như cắt bỏ ruột thừa mà thôi. Vì không thấy rõ tà, nên ta không tu
tập rõ ràng và ta thường bị tà ma quấy rối.
Tôi nói giữa này có rất nhiều người tín ngưỡng Phật giáo,
nhưng lại là rất ít Phật tử. Có tín ngưỡng Phật giáo, nhưng chưa hẳn là Phật tử;
có nhiều người khoát áo nhà tu, nhưng trở thành những bậc chân tu không phải dễ
dàng gì?! Nếu nhiều Phật tử thì tà
thuyết không thể xen vào được, nhưng mình chỉ là Phật tử giả danh, tu học không
có Chánh kiến. Tôi nói trắng ra, nhiều tổ chức mang danh nghĩa Phật giáo, nhưng
đào tạo
những thành viên không đúng với phẩm chất Phật giáo. Họ
đào tạo chạy theo danh nghĩa hơn là thực chất; đào tạo mang tính lý thuyết hơn
là thực nghiệm, nên những hậu quả xấu đã xảy ra đến cho thời đại chúng ta có
liên lụy đến Phật giáo và xã hội con người, điều đó nếu chúng ta có chút trầm
tĩnh và chiêm nghiệm giáo lý nhân duyên, nhân quả, nghiệp báo của đức Phật dạy
là thấy ngay.
Là Phật tử, chúng ta không chống lại thế gian mà cũng
không theo thế gian. Chống lại thế gian này thì lấy gì để tu? Cơm đâu mà ăn? Áo
đâu mà mặc? Nhà đâu mà ở? ….
Theo thế gian để có ngũ dục và hưởng thụ ngũ dục là phi
Phật tử. Chống thế gian để có giải thoát là điều hoang tưởng, hoàn toàn không có
trong Phật giáo và chạy theo thế gian để có giải thoát lại càng không có trong
giáo lý Phật giáo.
Chúng ta hãy nhìn kỹ vào hoa sen để thấy, hoa sen có theo
ai không? Hoa sen không theo bùn mà cũng không chống lại bùn. Hoa sen sống giữa
bùn và sống với bùn mà không trở thành bùn và không bị bùn đồng hóa. Hoa sen
sống với bùn mà vẫn là sen, đó mới gọi là hoa sen. Phật tử sống giữa thế gian và
sống với thế gian, mà không phải là người đời và không bị người đời đồng hóa mà
có khả năng đồng hóa người đời, bằng những tính chất Phật tử của mình, nên mới
gọi là Phật tử quy y Phật Pháp Tăng và giữ giới đã phát nguyện.
Cho nên, đạo Phật có ngay giữa thế gian và ngay nơi thế
gian mà xuất thế. Vì vậy, Chánh kiến là thấy rõ, xuất thế gian ngay ở nơi thế
gian. Chánh kiến là thấy rõ ngay nơi Khổ đế, có Tập đế, Diệt đế và Đạo đế; thấy
rõ ngay nơi Tập đế có Khổ đế, có Diệt đế và Đạo đế; thấy rõ ngay nơi Diệt đế có
Đạo đế, để diệt khổ và khổ diệt và thấy rõ ngay nơi Đạo đế là Diệt đế, nên khổ
diệt và diệt trừ hết thảy nhân duyên của khổ.
Cho nên, thấy cho rõ trong Khổ có Tập, trong Khổ có Diệt
và trong Khổ có Đạo, cái thấy đó là Chánh kiến. Thêm nữa, thấy trong Tập có Khổ,
tức là thấy trong nhân có quả, vì biết như vậy, nên không bao giờ tạo nhân xấu
để có quả khổ. Biết trong quả có nhân, nên chấp nhận quả để chuyển hóa nguyên
nhân, khiến nhân thiện sinh khởi quả vui. Thấy Tập khởi phiền não này có thể
chấm dứt được, có thể đình chỉ được, có thể tu và thay đổi được, tức là thấy
trong Tập có Diệt và trong Tập có Đạo, cái thấy ấy là Chánh kiến. Lại thấy trong
Diệt có Khổ là nhờ có khổ này, ta mới đối diện với nó, để tu tập và chuyển hóa.
Diệt này do khổ mà khởi tâm tu tập, nhờ vậy nên có diệt; Diệt này do khổ vắng
mặt mà có và diệt này đi tới bằng con đường nào? Đó là con đường của Đạo đế.
Trong Đạo có Khổ, trong Đạo có Tập và trong Đạo có Diệt.
Nên, chúng ta tu tập là phải khổ luyện, phải thức khuya
dậy sớm, phải cần mẫn nhiếp phục phiền não, nghiệp chướng nơi tâm ta với nhiều
phương pháp khác nhau. Khi ăn cơm phải quán chiếu để nhắc nhở mình phòng hộ lòng
tham, phòng hộ sự sân hận và tâm mù quáng. Khi tu tập, ta ăn cơm, ta phải biêt
cơm này là của ai và do đâu mà có, mình có xứng đáng để thọ dụng những thực phẩm
này không, thọ dụng thực phẩm trong sự quán chiếu là để nuôi lớn ý thức trách
nhiệm, lòng biết ơn và tâm từ bi của mình mỗi ngày. Tu tập như vậy là khổ luyện
và nhờ khổ luyện cái tâm ý của mình như vậy, cho đến chỗ tâm ý thuần thục, thì
các khổ nhân và quả tự diệt. Nên tu tập là phải biết ứng dụng phương pháp diệt
khổ vào ngay trong đời sống, để cho các khổ nhân và khổ quả tự diệt.
Cho nên, ta ăn cơm ở trong ý thức chánh niệm tỉnh giác,
trong ý thức trách nhiệm, biết ơn và từ bi, thì cái nghiệp tạo ra do ăn đem lại
sẽ tự tiêu diệt. Ta ăn cơm với những ý thức như vậy, thì phước đức và hạnh phúc
của ta sẽ được sinh trưởng và lớn mạnh ở trong chánh pháp.
Ta nên biết rằng, thành tựu cái ăn không phải dễ dàng.
Trong cơ thể ta chỉ cần một bộ phận trở ngại, thì việc ăn của ta sẽ không thành
tựu và nếu các bộ phận trong cơ thể ta không bị trở ngại, nhưng không có thực
phẩm, không có người làm ra thực phẩm hoặc không có không khí, đất nước, gió
lửa, mặt trời, mặt trăng, dòng sông… thì cái ăn của ta cũng không thể nào thành
tựu được. Nên, ta ăn với ý thức tỉnh giác, ý thức trách nhiệm, ý thức biết ơn và
tâm từ bi, thì cái ăn của ta giúp ta tiêu hóa các thực phẩm một cách nhẹ nhàng,
có ý nghĩa và thăng tiến. Ta ăn như vậy là ăn ở trong Chánh mạng và được nuôi
dưỡng bằng Chánh kiến.
Ta có biết các loài vật ăn cơm, hệ tiêu hóa của chúng phải
cấu trúc như thế nào không? Nó không phải cấu trúc theo cơ thể sinh học đơn
thuần, mà cấu trúc cơ thể liên hệ theo nhân duyên nghiệp báo. Cơ
thể của nó chính là nghiệp báo của nó.
Gà, chim ăn thì bộ tiêu hóa của chúng được cơ cấu như thế
nào? Cái gì cơ cấu? Nghiệp báo của chúng tự cơ cấu thân thể theo nhân duyên của
chúng, để cho chúng có thể thích ứng với điều kiện sống của chúng, để tồn tại
trong hệ quả nghiệp báo của chúng.
Nghiệp thiện và ác của loài nào, thì chúng sẽ tạo ra đời
sống thích ứng cho chính loài đó, và khiến cho chúng có đủ điều kiện, để tiêu
thụ nghiệp báo của chúng.
Như vậy, nếu không có Chánh kiến, mình làm sao thấy được
giá trị của một bữa ăn, công lao của người làm ra hạt gạo và nhân duyên nghiệp
báo của mình trong lúc ăn. Nên, hạnh phúc của con người không phải chỉ có cái
biết mà còn phải biết tiêu thụ cái biết vào trong đời sống hàng ngày của mình.
Hạnh phúc của ta không phải là cái biết mà là hoa trái của cái biết và biết
hưởng thụ hoa trái của cái biết ấy, ngay trong đời sống của chính mình.
Nhờ có thực tập Chánh kiến, ta mới thấy được sự thật của
từng vấn đề và chỉ có Chánh kiến mới có khả năng giúp ta hưởng thụ hết được
những gì ta đã có và đang có. Nếu thiếu Chánh kiến, ta sẽ phung phí sự sống của
ta, ta phung phí những gì ta đang có và ta không có khả năng sống với nó một
cách hoàn hảo và trọn vẹn.
Thiếu Chánh kiến là ta phung phí cuộc đời của ta như Bùi
Giáng đã nói:
“Nửa đời đã bỏ thâu canh
Nửa con nước bỏ tuổi xanh lên bờ
Khổ đau về giữa bất ngờ
Hoang liêu phố thị chân hờ hững đi”.
Ta có thể đã bỏ nửa đời, hai phần đời cho những mục tiêu
vô ích. Ta đã bỏ hết cả cuộc đời cho sự nghiệp tích lũy tài sản và danh vọng,
nhưng khi chết, thì ta không hề có một xu cắc nào dính túi và không có một tên
gọi cao sang nào bảo chứng cho ta thoát khỏi sự chết.Trong khi tu học ta tạo
phước đức cho tương lai của chính ta, thay đổi nghiệp chủng xấu trong quá khứ
của chính ta, thì ta không chịu làm. Tu tập là để có Chánh kiến và nhờ có Chánh
kiến khiến cho những nghiệp chủng xấu ác của ta thay đổi, khiến ta có thể có
được đời sống an bình ngay trong đời sống này và đời sống sau khi chết.
Nhờ có Chánh kiến, ta mới có Chánh tinh tấn, khiến ta nỗ
lực làm những gì cần làm; nhờ có Chánh kiến, ta mới có Chánh ngữ, khiến ta biết
nói những gì cần nói; nhờ có Chánh kiến, ta mới có Chánh nghiệp, khiến ta hành
động những gì cần phải hành động; nhờ có Chánh kiến, ta mới có Chánh mạng, khiến
ta biết nuôi dưỡng những gì cần phải nuôi dưỡng; nhờ có Chánh kiến, ta mới có
Chanh tư duy, khiến ta biết tư duy những gì cần phải tư duy; nhờ có Chánh kiến,
ta mới có Chánh niệm, khiến ta phải nhớ nghĩ đến những gì cần phải nhớ nghĩ và
nhờ có Chánh kiến, ta mới có Chánh định, khiến ta an trú tâm vào những đối tượng
cần phải an trú để nhiếp phục, soi chiếu và chuyển hóa hết thảy các loại phiền
não nơi tâm.
Như vậy, chúng ta thấy Chánh kiến quan trọng như thế nào ở
trong Bát Chánh Đạo và quan trọng như thế nào ở trong Phật giáo và trong đời
sống tu tập của những người con Phật chúng ta?
Nguồn: Hoằng
Pháp 33