Bích
Hoàn
Đã từ
lâu, hình ảnh nếp chùa làng đơn
sơ, cổ kính in sâu
trong
tâm thức mỗi người dân đất Việt. Ở nhiều làng quê, chùa
và đình thường đặt cạnh nhau, là nơi tiến
hành các nghi thức cúng lễ Phật
giáo và
tín
ngưỡng dân gian, là nơi
tổ chức một số hoạt động chung của
nhân dân trong làng. Trải qua mấy
trăm năm, sự xuất hiện của nhà văn hóa,
trụ sở dân phòng,
trường
học… đã tạo nên nhiều
thay đổi, việc làng chủ yếu diễn ra ở các công trình
công cộng mới. Chùa làng bây giờ
chỉ còn là nơi thờ
tự và tính chất giản dị, trang nghiêm
cũng
đang dần dần mai một
theo thời
gian.
ảnh
chỉ có tính chất minh họa
Đầu
tiên
phải nói đến là thái độ ứng xử của người trông giữ chùa đối với người đi lễ Phật. Chùa làng, ngoài sư
trụ trì là người giữ vai trò
chính yếu, còn có những
người già trong làng ra
giúp việc quét tước, lau dọn, nấu cơm. Cách đối xử của họ trong một số trường hợp có sự
phân biệt, thiếu công bằng thấy rõ. Khách đi ôtô, xe máy
đắt
tiền đến chùa thì được
tiếp đón niềm nở, ngược lại, người đi bộ, đi xe đạp hay xe máy hạng
thường có lúc còn bị
đuổi với lý do “hôm nay chùa không tiếp
khách”. Chuyện cấm quay phim,
chụp ảnh trong khuôn
viên
chùa xảy ra ở nhiều nơi, mặc dù không hề
có một bảng quy định nào cho biết điều đó. Thậm chí ở vài nơi, chỉ
cần giơ máy ảnh lên
chụp liền có người nhà chùa ra
giật lấy, kèm theo
những lời lẽ thiếu văn hóa không
thích hợp cho không gian
chốn Thiền môn. Trên những
trang web, diễn đàn Phật giáo, ý kiến phản ánh việc đến chùa này thấy
người nhà chùa tỏ ra
thờ ơ, lạnh
nhạt, đến chùa kia chứng
kiến cảnh quát tháo, mắng
chửi nhau xuất hiện nhiều, cho thấy hiện tượng này thật sự khá phổ biến.
Xa hoa, tốn kém trong việc
trùng tu, bảo tồn cơ sở thờ tự Phật giáo ở làng quê cũng
là một vấn đề đang được dư luận hiện nay quan tâm. Chùa xây nhiều
năm, tường bao, mái ngói
đã xuống cấp cần phải được sửa chữa là điều bình thường. Nhưng để cạnh tranh với chùa khác, làng khác,
phải vận động quyên góp một số
tiền lớn rồi mang ra tu sửa,
đúc tượng, xây chùa có
lẽ chưa thật sự cần thiết, khi mà trên
khắp đất nước, vẫn còn những người nghèo vất vả quanh năm chưa đủ ăn, ở đâu đó người khuyết tật, trẻ em mồ
côi đang cần được cưu mang, giúp đỡ.
Nền nếp sinh hoạt của tu sĩ
và Phật tử thường xuyên qua lại chùa làng cũng
rất nên lưu ý. Để Phật giáo phát triển và thích ứng
được với
chuyển biến của xã hội,
ngày hôm nay người trụ trì chùa làng
không nhất thiết là những vị sư tuổi đạo, tuổi đời đều đã cao mà
có cả các tu sĩ
trẻ tuổi. Về kiến thức Phật học họ có thể am hiểu thông tuệ, nhưng để quản lý một ngôi
chùa, còn cần phải dựa vào tín
đồ, người
dân địa phương. Sự chênh lệch
về tuổi tác, kinh
nghiệm
cũng như việc nhà sư là người
làng khác đến làng này nhận chùa nhiều khi xảy ra
xung đột, mâu thuẫn. Giải quyết tình hình này
thường xảy
đến hai trường hợp: vị sư không thể ở lại chùa làng buộc phải dời đi; vị sư ở lại nhưng quyền điều hành ngôi chùa trên
thực tế nằm trong tay một
nhóm người cao tuổi trong làng. Để
rồi từ đó, nhóm người
này vì
lợi
ích cá
nhân
đã thực hiện nhiều việc làm không đúng đắn như tổ chức hoạt động cầu cúng mê tín dị
đoan, xâm lấn tranh giành đất đai, chia
phần số tiền trong hòm công đức
v.v…
Sự
tồn
tại của chùa làng có
ý nghĩa rất lớn đối với Phật giáo trong việc
duy trì
ảnh
hưởng của mình trên đất
nước ta, là cơ sở
để đạo
Phật đi vào lòng người
với những triết lý về giải thoát, giúp con người thanh lọc thân tâm, điều chỉnh hành vi đạo đức để sống hòa nhập với cộng đồng. Gìn giữ và bảo
tồn ngôi chùa làng không
phải chỉ dừng lại ở những hoạt động trùng tu, tôn tạo
mà còn
nằm
trong các hành vi ứng
xử, sao cho phù hợp
với truyền thống văn hóa cao đẹp
của người Việt Nam.