Những giấc mơ của Einstein
NHỮNG GIẤC MƠ CỦA EINSTEIN
Hạnh Viên
Hỏi tên, rằng biển xanh dâu
Hỏi quê, rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên rằng một hai ba
Đếm là do tưởng đo là nghi tâm.
(Bùi Giáng)
Cũng may, những vấn đề con người phải đối mặt kỳ cùng trên thế gian này có lẽ không nhiều. Nhưng không may đó lại là những đối diện lạnh lùng và hoang vu có thể làm đóng băng mọi tâm hồn nồng nhiệt nhất, mọi đầu óc được cho là thông minh nhất của nhân loại. Như đỉnh núi tuyết ngàn năm chìm trong sương mù và băng giá, dù trong lòng nó có thể ẩn dấu đâu đó một hỏa diệm sơn.
Từ khi con người biết ngẫn ngơ trước vẻ đẹp rực rỡ đến độ bàng hoàng của buổi bình minh khi mặt trời dần ló dạng lạ lùng ở một nơi nào đó, mà ngày nay người ta gọi là phương đông, và vẻ đẹp kiêu kỳ như phong kín của nó lúc sắp tàn, ở phương tây, người ta càng ngẫn ngơ hơn trước hàng loạt vấn đề chợt nãy ra trước mắt: Cái đẹp, sự khai sinh, sự tồn tại, sự tàn diệt, và đằng sau tất cả, là bóng dáng lồ lộ của Thời gian. Đó là cái gì? Câu hỏi đơn giản nhất của rất nhiều đứa trẻ mà ‘người lớn’ đôi khi chẳng bận tâm trả lời. Nhưng từ đông sang tây, từ cổ chí kim, câu hỏi này đôi khi vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng, dù đã có rất nhiều giải đáp của những nhà hiền triết, thánh nhân. Có lẽ trước mọi câu hỏi rốt ráo, mỗi người phải có lời đáp riêng cho mình; không thể có một câu trả lời chung cho hết thảy. Chính đức Phật chừng như đã xác định điều này qua ví dụ về nắm lá rừng trong tay ngài so với lá trong rừng, trước các đệ tử đang khắc khoải tìm cầu chân lý. Con người bối rối. Con người hiện đại càng bối rối hơn. Càng ‘tiến bộ’ người ta càng thấy mình bất lực trước những vấn đề căn bản và cốt lõi nhất của nhân sinh. Thời gian là gì? L’être et le temps. Hiện hữu và thời gian. Être hay being, hay bhava, svabhava, hay hữu, rồi hữu thể, tính thể, tồn thể, tự thể v.v., đơn giản nhất là ‘là’, to be, rồi be-coming, come to be… tất cả đều ẩn hiện dấu vết thời gian. Một thực tế trước mắt, trong mọi khoảnh khắc, có thể cảm nhận được trong từng hơi thở, mà không ai nắm bắt được. Bởi vì hiểu được nó, nắm được bản chất của nó, có lẽ ta nắm được trong tay cả thế giới sum la vạn tượng này.
Cách đây 100 năm, ở thành phố Berne, Thụy sỹ, một viên thư ký Phòng cấp bằng sáng chế đã trải qua những giấc mơ lạ kỳ về bản chất của thời gian. Đó là Albert Einstein. Những giấc mơ đã hình thành trong ông khái niệm về thời gian tương đối, dẫn đến lý thuyết độc đáo về tính tương đối (relativity), làm sững sờ các nhà bác học Tây phương. Vật lý học hiện đại Tây phương tiến dần đến bờ mép những khu rừng thâm u huyền bí của Đông phương, nơi cách đây hàng nghìn năm các Phật giáo đồ đã không hề xa lạ với các khái niệm như Duyên khởi, tánh không của vạn hữu. Vì cái này có nên cái kia có, cái này không nên cái kia không, cái này sinh nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt. Nghĩa là hết thảy đều tương quan tương duyên mà sinh khởi, tồn tại, và cả hoại diệt; không có bất cứ gì có thể tự nó hiện hữu một mình, không nhân duyên - tức điều kiện (condition), nghĩa là có tính tương đối (relativeness), cũng tức là tính Không của vạn hữu. Thời gian từ khái niệm về một đường thẳng với ba thời điểm phân minh bỗng trở nên méo mó, lệch lạc. Mũi tên thời gian được bắn đi biến thành vòng tròn không có điểm khởi đầu và điểm kết thúc. Chưa có thể nắm bắt được nó như thật, người ta phải gợi nên bao giả định về nó. Đó là thời gian vật lý hay thời gian tâm lý, thời gian ý niệm hay thời gian tri giác, có thể quan sát được, hay thời gian trực nghiệm, nằm ngoài tất cả những cái trên? Đơn vị tận cùng của nó, nghĩa là thời gian tồn tại đích thực của một hiện hữu, là gì? Trước một sự hữu, ai cũng biết điều đơn giản: truớc lúc khởi hiện nó không có, sau khi đã hiện nó không còn. Vậy cái thực sự hiện hữu là cái nằm giữa hai thời điểm đó? Nó kéo dài bao lâu? Bản chất nó là gì? Theo quan điểm Phật giáo về lý thuyết sát-na diệt, nếu sự hiện hữu của một vật là đồng với thời gian hiện diện chính xác của nó, thế gian này gần như là hư vô, vì hiện tại là một thời điểm hầu như không có thời lượng, không thể nắm bắt. Hóa ra thực tại trước mắt đã đùa giỡn với con nguời một chút. Bấy lâu họ tưởng mình đã hiểu biết nhiều điều, nhưng chỉ là hiểu lầm. Bây giờ ít nhất họ biết rằng mình đã hiểu cũng nhiều như mọi người có thể hiểu với tất cả kinh nghiệm hữu hạn vốn là thân phận con người.
Sau đây là một trong những giấc mơ của Einstein, qua ngòi bút của nhà vật lý hiện đại Alan Lightman, lần đầu tiên viết dưới dạng văn học. Ông quen thuộc hơn với nhiều biên khảo rất có thẩm quyền trong ngành, là Giáo sư của Viện Kỹ thuật Massachusetts (MIT), và điều hành Chương trình Nghiên cứu và Biên khảo về Nhân văn của MIT. Những mơ mộng khẽ khàng dọ dẫm vào bản chất của thời gian, mà tôi xin trích dịch (phần in nghiêng) hầu bạn đọc một cái nhìn mới của Tây phương về vấn đề muôn thuở của mọi người, và của mỗi người.
Dẫn chuyện…
Trong hành lang mái vòm đằng xa, tháp chuông đồng hồ điểm sáu tiếng rồi ngưng bặt. Chàng trai nặng nề ngồi phịch trên bàn làm việc. Anh đã đến văn phòng hồi rạng sáng, sau một biến cố nữa. Tóc anh rối, quần thì rộng quá khổ. Trong tay anh là hai mươi trang giấy nhàu nát, lý thuyết mới của anh về thời gian, mà hôm nay anh sẽ gởi đến tờ báo ngành vật lý Đức.
Những tiếng động nhỏ lao xao từ thành phố vọng về căn phòng. Một chai sữa khua leng keng trên đá. Một tấm vải bạt kêu phần phật trong một gian hàng ở Marktgasse. Một chiếc xe ngựa chở rau cải thủng thỉnh qua đường. Một người đàn ông và đàn bà đang thì thầm bên căn phòng kế cận.
Trong ánh sáng nhẹ phớt qua căn phòng, những cái bàn làm việc như những chiếc bóng mờ ảo, trông giống những con thú to lù đang nằm ngủ. Trừ cái bàn của chàng trai, ngỗn ngang sách vở đang sử dụng, mười hai cái bàn bằng gỗ sồi còn lại đều ngăn nắp giấy tờ của ngày làm việc trước đó. Hai tiếng nữa khi họ đến đây, mỗi viên thư ký đều biết rõ sẽ bắt đầu công việc ở chỗ nào. Nhưng hiện tại, trong làn ánh sáng mờ nhạt này, những chồng tài liệu trên bàn làm việc cũng lờ mờ nhân ảnh chẳng kém chiếc đồng hồ nơi góc phòng hay cái ghế đẩu tựa cửa sổ. Tất cả những gì có thể nhìn thấy trong giây phút này là bóng dáng nhạt nhòa của những cái bàn và hình dạng lom khom của chàng trai.
Sáu giờ mười phút, theo cái đồng hồ treo đâu đó trên tường. Mỗi phút trôi qua, những vật thể dần lấy lại hình dáng của chúng. Đây là cái giỏ rác bằng đồng thau. Đằng kia, một tấm lịch treo tường. Và đây, một bức ảnh gia đình, một hộp kẹp giấy, một bình mực, và một cây viết. Đằng kia, cái máy đánh chữ, cái áo khoát vắt trên lưng ghế. Cuối cùng là những kệ để tài liệu treo khắp nơi trên tường hiện ra từ màn đêm. Rồi những kệ sách ấy lại hiện ra những cuốn sổ ghi các bằng sáng chế. Một bằng sáng chế về thiết bị khoan kiểu mới theo hình răng uốn cong để giảm thiểu sự ma sát. Một bằng khác giới thiệu máy biến thế ổn định điện áp dù điện nguồn dao động. Một bằng nữa mô tả một loại máy đánh chữ với phiếm gõ tốc lực thấp để giảm tiếng ồn. Một căn phòng đầy những sáng kiến thiết thực.
Bên ngoài, đỉnh núi Alps bắt đầu ửng hồng. Đã cuối tháng 6. Một thuyền nhân ở Aare đang tháo dây cột chiếc thuyền nhỏ của anh và đẩy nó ra, rồi thả theo dòng nước trôi xuôi về Gerberngasse, nơi anh đem bán những quả táo và quả mọng mùa hè. Ông chủ lò bánh mì đến xưởng ở Marktgasse, nhóm lên cái bếp lò nướng bằng than, khởi sự nhồi bột. Một cặp trai gái hôn nhau trên chiếc cầu Nydegg, rồi đăm chiêu nhìn xuống dòng sông bên dưới. Một người đàn ông đứng trên ban-công ở Schiffaube, tập đánh banh. Một thiếu phụ không ngủ được đang chậm chạp đi về hướng Kramgasse, nhìn soi mói vào từng góc tối của những mái vòm, và đọc những tờ quảng cáo trong tranh tối tranh sáng.
Trong gian phòng dài mà hẹp ở Speichergasse, cái văn phòng đầy những ý tưởng thực dụng, chàng thư ký trẻ đa tài vẫn còn uể oải vắt mình trên ghế, đầu gục xuống bàn làm việc. Trong nhiều tháng qua, kể từ giữa tháng tư, anh đã mơ thấy nhiều giấc mơ về thời gian. Những giấc mơ này đã chiếm lấy công trình nghiên cứu của anh. Những giấc mơ làm anh kiệt sức, mệt lả đến mức nhiều khi anh không biết là mình đang mơ hay tỉnh. Nhưng mơ mộng đã hết. Ngoài những bản chất khả dĩ của thời gian, được tưởng tượng trong nhiều đêm ròng như vậy, có một cái xem ra hấp dẫn. Không phải là những cái kia không thể có. Những cái đó biết đâu có thể có ở những thế giới khác.
Chàng trai cựa mình trên ghế, chờ người thư ký đánh máy đến, miệng khe khẻ ngâm nga giai điệu sonate Ánh trăng của Beethoven.
14 tháng 4, 1905. Đêm…
Nếu thời gian là vòng tròn, quay xung quanh chính nó. Thế giới tự lặp lại, một cách chính xác, vô tận.
Với tuyệt đại quần chúng, người ta không biết là họ sẽ sống cuộc đời họ đã sống. Những nhà buôn không biết là họ sẽ lại mặc cả y như trước và mãi mãi. Những nhà chính trị không biết là họ sẽ lại hô hào cùng một loại diễn văn không biết bao nhiêu lần trong những chu kỳ thời gian. Những người cha người mẹ yêu quý tiềng cười đầu đời của đứa con như thể họ sẽ không bao giờ được nghe nữa. Những người tình yêu nhau lần đầu tiên cởi bỏ y phục mà bẻn lẽn, ngạc nhiên sao bắp đùi thon mềm, làn da mỏng mịn. Làm sao họ biết đuợc mỗi cái lén nhìn, mỗi lần xúc chạm kia, sẽ được lặp lại mãi hoài như bao lần trước đó?
Trên phố Martgasse cũng vậy. Làm sao người bán hàng biết được mỗi cái áo đan tay, mỗi chiếc khăn thêu, mỗi cái kẹo, mỗi cái la bàn, mỗi cái đồng hồ phức tạp đó rồi sẽ lại trở về nằm trên quày hàng của họ? Khi chiều xuống, những người bán hàng trở về nhà với gia đình hay đi uống cốc bia cùng bạn hữu ở những con đường ngầm, nâng niu từng khoảnh khắc như viên lục ngọc được ký gởi tạm thời. Làm sao họ biết rằng không có gì là tạm thời, rằng tất cả chỉ là tái diễn? Không khác gì con kiến nhỏ bò quanh cái đèn chùm đâu biết rồi nó sẽ đến nơi đã bắt đầu ra đi.
Trong bệnh viện ở Gerberngasse, một thiếu phụ từ biệt chồng. Ông nằm trên giường, mệt mỏi nhìn bà với cái nhìn xa vắng. Trong hai tháng qua, căn bệnh ung thư cuống họng đã lan xuống gan, lá lách, rồi vào não ông. Hai đứa nhỏ con ông ngồi chung trên một chiếc ghế đặt ở góc phòng đang sợ hãi nhìn cha của chúng, với đôi gò má hóp sâu và làn da khô héo. Người vợ đến bên giường bệnh nhẹ nhàng hôn lên trán chồng, khẽ nói lời chào ông, rồi nhanh chóng ra về với lũ trẻ. Bà tin chắc đó là nụ hôn cuối cùng. Bà đâu biết rằng thời gian sẽ bắt đầu trở lại, rằng bà sẽ tái sinh, sẽ lại đến phòng tập thể dục thẩm mỹ, sẽ triển lãm tranh của bà ở một phòng tranh tại Zurich, sẽ gặp chồng trong một thư viện nhỏ ở Fribourg, sẽ chèo thuyền với ông trên hồ Thunlake vào một ngày đẹp trời tháng bảy, sẽ lại sinh con, và chồng sẽ làm việc tám năm trong một viện bào chế và một chiều trở về nhà với một cái bướu trong cổ họng, sẽ lại nôn mửa và phát bệnh và kết thúc cuộc đời trong cái bệnh viện này, trong căn phòng này, trên chiếc giường này và vào giây phút này… Làm sao bà có thể biết được?
Trong thế giới mà thời gian là vòng tròn, mọi cái bắt tay, mọi nụ hôn, mọi sự ra đi, mọi từ ngữ sẽ được lặp lại y như trước. Và chính vì mọi sự sẽ được lặp lại trong tương lai, mọi sự hiện đang diễn ra đã diễn ra hàng triệu lần trước đó. Chỉ có vài người nơi mỗi thành phố, trong những giấc mơ của họ, mơ hồ nhận thấy mọi việc quả đã xảy ra trong quá khứ. Đó là những người với cuộc sống không hạnh phúc, và họ cảm nhận được những phán đoán lạc nẻo, những hành vi sai lầm và sự rũi may của họ hết thảy đều đã diễn ra… Khi đêm tàn, những công dân đáng nguyền rũa này vật mình trong lớp chăn chiếu của họ, không thể chợp mắt nghỉ ngơi, vật vã với ý thức rằng họ khó thể thay đổi dù chỉ một hành vi, một điệu bộ. Họ sẽ phạm những sai lầm trong đời này cũng y như trong đời trước. Và chính những bất hạnh nhân đôi này là dấu hiệu duy nhất cho biết thời gian là vòng tròn. Bởi vì trong mỗi thành phố, lúc tàn canh, những con đường và những hành lang trống vắng còn vang vọng lời thở than của họ.
(Giấc mơ sau: Thời gian ba chiều.)