Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Tại giảng đường vườn rừng Ghositārāma,
biết là chư tăng đang bị nhiều mối nghi ở trong lòng, đức Phật liền vén mở bức
màn quá khứ đã bị che lấp liên hệ đến những sự việc xảy ra tại hoàng cung đức
vua Udena.
- Này chư tỳ-khưu! Một thuở rất xa xưa,
dưới triều đại đức vua Brāhmadatta, vào thời không xuất hiện một vị Chánh Đẳng
Giác nào, có tám vị Độc Giác trú cư tại núi non thuộc quốc độ Bārāṇasī, và các ngài thường vào thành phố để trì bình khất
thực. Lâu lâu, đức vua lại triệu thỉnh họ vào cung, lệnh
cho hoàng hậu, thứ hậu, thứ phi, cung nga thể nữ thay phiên nhau đặt bát cúng
dường và nghe một vài pháp thoại. Cả tám vị đều được đức vua tôn kính, trọng
vọng; là chỗ nương tựa tinh thần của đức vua, họ được ngài coi như là linh hồn
của quốc độ vậy.
Hôm ấy, sau khi đi bát xong, có bảy vị
quăng bát qua hư không để lên Hy-mã-lạp sơn. Chỉ còn một vị đến bờ sông Gaṇgā thọ thực, sau
đó vào một lùm cây rậm thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả.
Đức vua trị vì Bārāṇasī hôm ấy nhã
hứng cùng chư hậu, chư phi, cung
nga thể nữ du lãm ở ngoại thành, bày cuộc vui săn bắn, sau đó họ nghỉ ngơi tại
hành cung ven bờ sông.
Như những cánh chim được xổ lồng, có một
bà phi dẫn năm trăm cung nữ đi dạo chơi ven sông, sau đó tha hồ nhởn nhơ ngụp
lặn, bơi lội, đùa giỡn thỏa thích trong dòng sóng nước.
Lúc họ lên bờ thì trời trở lạnh. Ai cũng run lẩy bẩy. Bà phi sáng ý chạy
đến lùm cây, gom lá khô, rác khô, cành khô rồi đốt lửa sưởi ấm. Vô tình, ngọn
lửa lớn cháy lan đến lùm cây có vị Độc Giác đang trú
định. Vì do cây cháy nên lộ ra hình tướng vị Độc Giác quen thuộc - và có lẽ vì
ngài đang an
trú diệt thọ tưởng định nên chẳng hề hay biết chuyện gì xảy ra xung quanh.
- Chết rồi! Bà phi chợt la lên - Đây là bậc thầy của đức vua.
Nếu ông ta tiết lộ chuyện này chắc chị em ta không thoát khỏi tội chém đầu!
Thôi, một liều ba bảy cũng liều, chúng ta hãy phi tang, hãy chất thêm rác khô,
củi khô đốt cháy ông ta luôn đi. Sau khi chỉ còn tro tàn thì trời không biết,
đất chẳng hay!
Thế là năm trăm cung nữ làm theo lời bà phi.
Mỗi người chỉ cần gom lượm một bó nhẹ, cả năm trăm người như thế thì đã thành
một ngọn núi nhỏ vây quanh vị Độc Giác Phật. Khi thấy lửa đã bốc cháy rần rật họ
mới bỏ đi, yên trí với việc làm kín đáo của mình.
Tuy nhiên, đức Độc Giác Phật sau bảy ngày trú định diệt thọ
tưởng - đã không thể bị chết cháy, y bát và vật dụng bên mình đều được bảo toàn
do năng lực tối thượng của định này - ngài xả thiền, đi trì bình khất thực rồi
như cánh chim ưng, nhẹ nhàng bay về Tuyết Sơn.
Kể đến ngang đây, đức Phật kết luận:
- Đốt lửa lần đầu do vô tâm, vô ý, không có tư tác giết - nên không có tội nhân
không có tội quả. Đốt lửa lần hai là có cố ý, có chủ tâm, có
tư tác (cetanā) nên có tội nhân có tội báo. Bà
phi thuở xưa - hiện nay là hoàng hậu Sāmāvatī -
là kẻ chủ mưu trong việc thiêu cháy Phật Độc Giác; năm trăm cung nữ thuở xưa là
kẻ tòng phạm, chính là năm trăm cung nữ hiện nay. Chủ mưu hoặc tòng phạm
tạo tác một nghiệp ác chung - bây giờ bị trả quả cộng
nghiệp là lẽ đương nhiên vậy. Hoàng hậu Sāmāvatī và năm trăm cung nữ bị trả quả
thiêu đốt cả hằng trăm, hằng ngàn kiếp rồi - cái quả báo hiện tại chỉ là cái
nghiệp dư sót mà thôi vậy. Lạnh lùng thay là nghiệp.
Công bằng thay là nghiệp. Mà phân minh thay cũng là nghiệp vậy!
Sau khi biết rõ sự thật, cả pháp đường
ai cũng rùng mình, lặng người.
Đức Phật còn giảng thêm rằng:
- Hoàng hậu Sāmāvatī và năm trăm cung nữ bên cạnh sự chết nhưng nhờ không phóng
dật, chuyên cần chú niệm nên đã bất tử. Do vậy, bậc thiện trí kiên cố nhiếp tâm,
hoan hỷ trong pháp sẽ nếm thưởng hương vị cảnh giới an lạc của thánh nhơn.
Người chuyên niệm, tinh tấn vững vàng, cởi bỏ, vượt thoát mọi trói buộc, sẽ
thành tựu Niết-bàn tối thượng.
Rồi ngài đọc liên tiếp ba câu kệ:
“- Con đường phóng dật: Nguy nan!
Con đường tỉnh thức: Vinh quang đời đời
Buông lung là kẻ chết rồi
Pháp mầu bất tử đợi người cần chuyên!”
“- Trí nhân thấy rõ cơ duyên
Nhiếp tâm kiên định lên thuyền sang sông
An vui, hoan hỷ tự lòng
Dự vào cảnh giới thanh trong thánh mầu!”
“- Trí nhân tinh tấn thiền hành
Kiên trì nỗ lực duyên sanh Niết-bàn
Ma vương khó buộc, khó ràng
Tự do tối thượng thênh thang bến bờ!” (1)
Đại đức Ānanda chợt phát biểu:
- Bạch đức Thế Tôn! Người phóng dật, giải đãi dầu còn sống nhưng xem như đã chết
rồi! Người chú niệm, tinh cần, dẫu chết rồi nhưng vẫn bất tử! Ý nghĩa ấy chúng
đệ tử lãnh hội rồi! Ôi! Cái vòng nhân quả báo ứng này - ngoài sự kiện nổi bật,
gây nhân thiêu cháy nên bị trả quả thiêu cháy - nó còn hé lộ cho ta thấy rõ hai
hiện tượng nhân quả phân minh nữa: Một, bà phi thuở xưa do đặt bát cúng dường
nên hiện nay do phước bảo trợ sinh làm hoàng hậu với danh phận, địa vị, sắc đẹp
được bảo toàn. Hai, lại do nhân được nghe pháp thuở xưa nên kiếp này bà là
người đầu tiên nghe pháp rồi sau đó sống trong pháp. Năm trăm cung nữ
theo hầu đều được giải thích tương tợ thế. Không biết kiến giải của đệ tử như vậy có trùng khít với sự thật
nhân duyên, nhân quả nhiều đời không?
Đức Phật gật đầu:
- Nó như vậy đấy! Tuy nhiên, trong cái riêng có cái chung và trong cái chung vẫn có cái riêng - nên không phải
lúc nào họ cũng gặp gỡ nhau, chung sống với nhau như chủ và tớ. Vẫn có hằng
trăm, hằng ngàn kiếp họ thất lạc nhau trong luân hồi - tương tợ một trận bão,
một cơn lốc cuốn đi qua một cánh rừng, nó bứt tung
những ngọn lá bay tản mác mấy phương trời vô định vậy. Hiện tại, họ gặp nhau lại
do phúc duyên đã chín vàng - nên khi ra đi, một số đắc Bất Lai, nhiều hơn là đắc
Nhất Lai, số còn lại đều được vào Thất Lai cả.
Cả giảng đường như đồng thanh tán thán: Sādhu, lành thay!
Đại đức Ānanda chợt hỏi:
- Còn Cô thị nữ lưng gù?
Nhân duyên quá khứ của cô gái đa văn này như thế nào mà lạ
lùng vậy - thưa đức Đạo Sư?
- Ừ! Cô ta cũng chỉ là một trong số năm trăm cung nữ thuở trước đấy thôi. Cô ta
cũng cùng chung cộng nghiệp bố thí, cúng dường cho tám
vị Độc Giác Phật - nhưng riêng cô ta thì nghe pháp nhiều hơn, chăm chú tư tác
nhiều hơn. Có điều đặc biệt nữa - là có lần, khi họ dâng bát vật thực còn nóng
sốt đến tám vị Độc Giác Phật - các ngài vừa đưa tay ra
thì phát giác là bát còn nóng. Cô gái này - tiền thân thị nữ Khujjuttarā
- mau mắn, lanh trí lấy từ hai cổ tay ra tám chiếc vòng ngọc dâng cho quý ngài rồi nói rằng:
“Đệ tử kính dâng luôn tám vòng ngọc này để quý ngài ngăn bát trên tay cho đỡ
nóng!” Do phước báu của cái nhân này nên bao giờ cô ta cũng vượt trội trong
chúng về thông hiểu giáo pháp, trí thông minh cũng như sắc tướng!
Ở đâu đó có tiếng cười nhẹ rồi có tiếng hỏi:
- Còn cái lưng gù là tại sao, bạch đức Thế Tôn?
Đức Phật cũng mỉm cười:
- À, cái cô ấy thiệt là quá quắt, thiệt là tinh nghịch! Số là trong tám vị Độc
Giác ấy có một vị có cái lưng hơi gù! Hôm ấy, giữa mấy trăm chị em rỗi việc, cái
cô này lấy một tấm chăn giả làm y, một cái bát vàng giả làm bát khất thực - rồi
cô gù lưng xuống, ôm cái bát đi tới đi lui, nói
rằng:“Ngài Độc Giác của chúng ta đi tới như vầy, đi lui như vầy, khi đứng thì
cái lưng trông như cái vòng cung như vầy”. Nói thế xong cô ta cười ngặt nghẽo.
Do nhân ấy, cô ta bị trả quả gù lưng như vậy đó!
Đại đức Ānanda thay mặt đại chúng hỏi tiếp:
- Vậy vì cái nhân gì mà cô ta phải làm thị nữ (đầy tớ, người hầu) bạch
đức Thế Tôn?
- Đấy là nghiệp riêng của cô ta - Chỉ mới đây thôi, vào thời đức Phật Kassapa,
cô ấy là một tiểu thư con một bậc trưởng giả kinh thành
Bārāṇasī. Cả đại gia đình đều là đệ tử thuần thành của đức Phật Kassapa.
Ngôi trang viên này là giếng nước giữa ngã tư đường cho chư
tăng ni đến và đi. Họ đặt bát cúng dường thường xuyên cho chư
tăng ni của giáo hội. Chiều hôm ấy, khi cô đang ngồi kẻ lông mày thì có một
vị thánh ni
đến nhà viếng thăm có việc với gia đình trưởng giả. Do quá quen biết nên vị
thánh ni ngồi xuống một bên. Vì bận trang điểm bằng cả hai
tay, cô ta nói: “Sư cô cho phép đệ tử được đảnh lễ sư cô bằng lời nói.
Tiện thể, nhờ sư cô lấy giúp cái hộp phấn màu nằm phía bên tay trái của sư cô
đó!” Vị thánh ni suy nghĩ: “Nếu ta không lấy cái hộp trang điểm theo lời
yêu cầu của cô gái - thì nghịch ý cô ta, có thể đưa đến sự phiền giận. Mà phiền
giận theo
tính khí ưng gì được nấy đã thành nề của cô ta, đôi khi tạo oan trái - đến một
người đã vô lậu giải thoát như ta - thì cô ta sẽ bị quả báo rất nặng, có thể đọa
địa ngục. Còn ví bằng, ta thuận lấy để trao cho cô ta - như vậy là cô ta đã sai
bảo một vị thánh lậu tận - thế là sau này cô ta sẽ mang lấy những kiếp tôi đòi,
hầu hạ người khác. Thôi ta đành để cho cô ta mang thân phận
thấp thỏi - còn hơn là nghiệp báo oan trái đọa địa ngục!” Do cân phân
hai tội nặng và nhẹ như vậy nên vị thánh ni lấy hộp
trang điểm cho cô gái. Và bởi nhân xưa như thế nên đã nhiều
kiếp rồi, cô Khujjuttarā phải mang thân phận thấp hèn.
Thế là nhân và quả, người và vật của toàn bộ câu chuyện xảy ra tại hoàng cung
đức vua Udena đã được đức Phật vén mở từ trong mù sương của quá khứ - ai nấy đều
nghe biết rõ ràng, chẳng còn nghi ngờ, thắc mắc gì nữa. Tất thảy phàm tăng đều
kinh hãi khi chứng kiến sự diễn tiến lạnh lùng nhưng phân minh của nhân quả
nghiệp báo.
(1) Pháp cú 21,
22, 23: Appamādo amatapadaṃ pamādo maccuno padaṃ. Appamattā na mīyanti ye pamattā yathā matā.
Etaṃ visesato ñatvā appamādamhi paṇḍitā. Appmāde
pamodanti ariyānaṃ gocare ratā.
Te jhāyino
sātatikā niccaṃ daḷhaparakkamā. Phusanti dhīrā nibbānaṃ yogakkhemaṃ anuttaraṃ.