Hà Văn Thuỳ
Ngay trước Tết, có tin mừng, xin chuyển tới bạn
đọc niềm vui lớn là đã phát hiện được chữ Việt cổ ở Quang Tây Trung Quốc. Theo tin của Lí Nhĩ Chân đăng trên website news.xinhuanet.com
January 03, 2012 được dịch và công bố trên mạng Việt học và được trang Lý học Đông
phương
đưa lại như sau:
“Hôm trước, Hội nghiên cứu văn hóa Lạc Việt – tỉnh Quảng Tây truyền
phát tin tức là người Lạc Việt ở Trung Quốc đã sáng tạo chữ viết vào bốn nghìn
năm trước, phá bỏ quan niệm tổ tiên của dân tộc Tráng là người Lạc Việt không có
chữ viết. Phát hiện chữ viết của người Lạc Việt lần này sẽ viết lại lịch sử chữ
viết ở Trung Quốc, chứng minh văn hóa Lạc Việt là một trong những nguồn gốc
trọng yếu của văn hóa Trung Hoa.
Trước thời điểm này, giới sử học Trung Quốc đều
cho rằng tổ tiên của dân tộc Tráng không có chữ viết. Hội trưởng Hội nghiên cứu văn hóa Lạc Việt là Tạ Thọ Cầu giới
thiệu: chuyên gia của Hội nghiên cứu đã thu tập một số lượng lớn chứng cứ chứng thực người Lạc Việt
cổ sáng tạo chữ viết biểu ý vào bốn nghìn năm trước. Chữ viết Lạc Việt này có
mầm mống vào thời đầu của thời đại đồ đá mới, hình thành vào thời kí đỉnh cao
của ‘văn hóa xẻng đá lớn’ (4000-6000 năm trước), và chắc chắn có nguồn gốc sâu
xa với chữ giáp cốt cổ cùng ‘chữ Thủy’ của dân tộc Thủy.
Tháng 10 năm nay, tại di chỉ cúng tế xẻng đá lớn Cảm Tang – thị
trấn Mã Đầu – huyện Bình Quả – thành phố Bách Sắc, chuyên gia của Hội nghiên cứu
văn hóa Lạc Việt – tỉnh Quảng Tây phát hiện mấy chục khối mảnh vỡ xẻng đá lớn và
tấm đá có khắc đầy chữ viết cổ. Ngày 19 tháng 12, chuyên gia lại đi đến hiện
trường tiến hành khảo sát. Nghiên cứu phát hiện, khối đá có chữ viết lớn nhất là
dài 103 cm, rộng 55 cm, trên bề mặt khắc đầy mấy trăm tự phù, phần lớn là chữ
cúng tế và lời chiêm bốc. Theo thống kê sơ qua, trên những
phiến đá này có hơn 1000 tự phù.
Một phiến đá khắc chữ
Lạc Việt
Các chuyên gia dựa vào sự phân bố xẻng đá lớn
hoàn chỉnh ở bên cạnh phiến đá có khắc chữ mà suy đoán, thời kì xuất hiện của
phiến đá có khắc chữ giống nhau với thời kì xẻng đá lớn. Nó cho thấy trước mắt chữ của người Lạc Việt cổ ở di chỉ cúng tế
xẻng đá lớn Cảm Tang là một trong những văn tự hình thành thời xưa được phát
hiện ở Trung Quốc.
Theo tin, vào tháng 11 năm ngoái, chuyên gia của Hội nghiên cứu
phát hiện đàn cúng tế loại lớn của người Lạc Việt cổ ở trên núi Đại Minh – tỉnh
Quảng Tây, trên đàn cúng tế còn phát hiện được phù hiệu và bàn vẽ. Quán trưởng
Bác vật quán Quảng Tây, Chủ nhiệm Ủy viên Hội giám định văn vật Quảng Tây là
Tưởng Đình Du cho rằng phù hiệu và bàn vẽ này là phù hiệu khắc vẽ cúng tế của
người Lạc Việt cổ thời đại đồ đá mới.
Sau đó, chuyên gia của Hội nghiên cứu cũng phát hiện một số lượng
lớn phù hiệu chữ viết cổ khắc trên mảnh xương, đồ ngọc, đồ đá tại vùng đất có
phân bố di chỉ cúng tế của người Lạc Việt là huyện Vũ Minh, huyện Long An của
thành phố Nam Ninh, huyện Điền Đông – thành phố Bách Sắc thuộc tỉnh Quảng Tây,
những phù hiệu (câu bùa) này rõ ràng là một câu đơn hoặc đơn biệt, được chuyên
gia cho là chữ viết của thời kì đầu.”
Thật là tin vui lớn nhưng với tôi không quá bất ngờ vì rằng, khi
tìm hiểu chữ Việt cổ, tôi đã biết những sự kiện sau:
1. Văn bản chữ tượng hình của người Việt cổ trên bình gốm tại di
chỉ Bán Pha 2, gần thủ phủ Tây An tỉnh Sơn Tây Trung
Quốc, có tuổi 12000 năm.
2. Chữ tượng hình khắc trên yếm rùa tại di chỉ Giả Hồ tình Hà Nam
Trung Quốc có tuổi 9000 năm.
3. Một số chữ tượng hình cổ phát hiện ở Sơn Đông, nơi cư trú trước
đây của người Việt cổ.
4. Chữ tượng hình được gọi là chữ Thủy của người Thủy tộc, một bộ
lạc Việt với 250000 người hiện sống ở Quý Châu.
Theo lịch sử hình thành dân cư Trung Quốc mới được phát hiện, thì
thời gian này, trên địa bàn Trung Hoa chỉ có người Việt sinh sống, người Hoa Hạ
chưa ra đời chứng tỏ rằng đó là chữ của người Lạc Việt.
Điều đáng chú ý là, chữ Bán Pha và Giả Hồ gợi nhớ tới Giáp cốt và Kim văn. Nhờ vậy, khi
đối chiếu với Giáp cốt văn, các nhà chuyên môn đã đọc được văn bản trên bình gốm
Bán Pha 2.
So sánh tự dạng thì thấy chữ Cảm Tang phức tạp hơn chữ tượng hình ở
di chỉ Bán Pha 2 và Giả Hồ nhưng lại đơn giản hơn chữ trên Giáp cốt và Kim văn. Điều này cho phép giả định, hệ thống chữ Lạc Việt có thể bắt đầu từ
Bãi đá Sapa đi lên. Do ở thời kỳ sớm nên chữ ở Bán Pha
2 và Giả Hồ còn đơn giản. Do có tuổi muộn hơn nên chữ Cảm Tang đã phức tạp hơn.
Phải chăng chữ trên giáp cốt và đồ đồng Ân Khư là sự phát triển sau cùng của chữ
tượng hình Lạc Việt. Sau thời gian này, trên cơ sở Giáp cốt và Kim văn,
cộng đồng người Việt và người Hoa trong vương triều Chu cùng các nhà nước kế
nhiệm chung tay xây dựng chữ tượng hình Trung Hoa.
Điều này cho thấy Giáp cốt và Kim văn là của người Lạc Việt. Có thể
giải thích việc Giáp cốt và Kim văn tập trung nhiều ở Ân Khư như sau: Nhà Thương
là một dòng Việt sống ở Nam Hoàng Hà nên cũng sở hữu chữ viết tượng hình này.
Khi xâm lăng đất của người Lạc Việt ở vùng Sơn Đông ngày nay, đã cướp những văn
tự của người Việt ở đây mang về kinh đô của mình, làm phong phú sưu tập chữ Lạc
Việt.
Phát hiện chữ Lạc Việt ở Cảm Tang có ý nghĩa rất quan trọng vì đó
là chứng cứ rõ ràng nhất cho thấy người Lạc Việt sáng tạo chữ viết trên đất
Trung Hoa khoảng 4000 đến 6000 năm trước. Mặt khác, chữ cổ Cảm Tang chứng minh
sự liên tục của chữ tượng hình Lạc Việt từ Sa Pa Việt Nam tới nhiều vùng khác
nhau trên lục địa Trung Hoa.
Ngày 17. 1.
2012
Nguồn:
PSN