Bài viết
này phác thảo những kết quả nghiên cứu được thực hiện vào năm 2000 về những đóng
góp của các tổ chức Phật giáo vào phúc lợi xã hội ở Úc. Việc nghiên cứu này minh
chứng rằng Phật giáo Úc rõ ràng là tôn giáo nhập thế, không chỉ ở trong thực
tiễn, mà cũng từ quan điểm của các thành viên của những tổ chức Phật giáo, những
người cũng cho rằng sự thực hành như vậy đã luôn là điều quan yếu đối với những
tổ chức Phật giáo của họ và không phải là một hiện tượng mới. 54 trong số 319 tổ
chức Phật giáo ở Úc (xấp xỉ 17%) được chọn làm đối tượng nghiên cứu. Con số
những tổ chức Phật giáo xuất phát từ các truyền thống Theravada, Đại thừa và Tây
Tạng được đưa ra làm mẫu nghiên cứu là xấp xỉ bằng nhau. Với tổng số là 96% các
tổ chức đã dấn thân tích cực trong những hoạt động phúc lợi xã hội và giáo dục.
Một bảng
câu hỏi không hạn chế đã được sử dụng với mỗi tổ chức để thăm dò những gì là
những hoạt động dấn thân xã hội mà các tổ chức đang thực hiện. Những đại diện tổ
chức cũng được hỏi lý do về công việc dấn thân xã hội của họ, và họ có thấy công
việc đó như là một sự thực hành tương đối mới trong những tổ chức của họ hay
không, hay là một sự thực hành cốt yếu được tiếp nối tương tục ở trong truyền
thống Phật giáo.
Có một
sự tranh luận đáng kể về việc Phật giáo nhập thế có phải là một hiện tượng mới
được vun trồng ở phương Tây, hay nó là một bộ phận của truyền thống Phật giáo
nhưng bây giờ được phát triển theo một cách thức rõ ràng ở phương Tây. Kraft đã
đặt ra những câu hỏi trong bài viết của mình “Thực hành hoà bình: Nhập thế ở
trong Phật giáo phương Tây,”
về cách Phật giáo, được truyền bá đến phương Tây, sẽ dấn thân vào công việc phúc
lợi xã hội như thế nào. Trong lời giới thiệu của mình cho tuyển tập những bài
tiểu luận của Eppsteiner do những người nhập thế có ảnh hưởng trong Tổ chức
Buddhist Peace Fellowship viết, và được xuất bản với tên gọi là “Con đường Từ
bi”, Kraft cho rằng những truyền thống Phật giáo nhập thế đã luôn tiềm tàng
trong Phật giáo từ thời đức Phật. Ông tiếp tục thảo luận tỉ mỉ tại sao Phật giáo
nhập thế ở phương Tây đã làm cho những phẩm chất này hưng thịnh:
“Những
phẩm chất mà chúng được thừa kế ở nơi môi trường Á châu tiền hiện đại… bây giờ
có thể thực hiện qua việc chuyển hướng của Phật giáo đến phương Tây, nơi tình
cảm đạo đức, chủ nghĩa tích cực xã hội và chủ nghĩa quân bình được nhấn mạnh.”
Tuy
nhiên, Queen trong quyển sách gần đây của mình, “Phật giáo nhập thế ở phương Tây”,
nhấn mạnh rằng Phật giáo nhập thế chỉ xuất hiện trong bối cảnh gần đây liên quan
đến những quan tâm toàn cầu về nhân quyền và công bằng xã hội. Ông định nghĩa
Phật giáo nhập thế như là việc áp dụng Pháp (dharma) vào việc giải quyết những
vấn đề xã hội. Yarnall, trong bài viết của mình “Phật giáo Nhập thế: Mới và
Phát triển? Được làm ở Hoa Kỳ bằng nguyên liệu châu Á”, tóm tắt một cách sắc
sảo hai luận điểm căn bản trong số các học giả về Phật giáo nhập thế. Một nhóm,
chẳng hạn như Queen, người mang danh xưng là “những nhà cách tân,” đề xuất rằng
mặc dù có thể có những lý thuyết liên quan đến chính trị xã hội tiềm tàng trong
Phật giáo nguyên thuỷ, chúng đã không được phát triển mãi đến khi Phật giáo tiếp
xúc với xã hội phương Tây hiện đại. Sự thực, Phật giáo nhập thế có những khác
biệt quan trọng so với Phật giáo truyền thống.
Nhóm
khác, mà ông gọi là “những nhà truyền thống,” đã không bao giờ chấp nhận một sự
phân đôi Phật giáo thành hai lĩnh vực tâm linh và xã hội; và từ quan điểm này,
Phật giáo với hai trụ cột trí tuệ và từ bi, tất yếu liên quan đến hạnh phúc con
người cả ở phương diện cá nhân và xã hội. Những hình thức Phật giáo hiện đại về
bản chất là tiếp giao với những hình thức truyền thống bất chấp vũ đài xã hội và
ngữ cảnh văn hoá khác biệt. Quan điểm này của những nhà truyền thống được những
Phật tử trong các tổ chức Phật giáo ở Úc ủng hộ mạnh mẽ. Họ ủng hộ quan điểm
rằng những hoạt động phúc lợi xã hội đã luôn là phần cốt yếu ở trong Phật giáo,
mặc dù những hình thức văn hoá có thể khác. Họ không tách sự giác ngộ ra khỏi
nhập thế. Trong kinh nghiệm của họ điều đó là bất nhị. Giác ngộ và nhập thế,
công việc bên trong và công việc bên ngoài, không được quan niệm như một sự tách
rời, mà, thay vì vậy, hỗ tương và gắn kết với nhau. Ken Jones ủng hộ quan điểm
này, biện luận thêm rằng trong triết học và thực hành Phật giáo không thể có sự
tách biệt giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
Quan
điểm của Bucknell về Phật giáo nhập thế ở Úc, mặc dù là bài viết đầu tiên về chủ
đề này, có khuynh hướng xem những hoạt động nhập thế nói chung là ngẫu nhiên đối
với những tổ chức Phật giáo, đặc biệt đối với những tổ chức không phải của người
nhập cư. Ông cho rằng những tổ chức Phật giáo cùng sắc tộc đóng vai trò như là
những trung tâm phúc lợi và văn hoá chủ yếu dành cho những cộng đồng người nhập
cư. Những kết quả của việc nghiên cứu bao quát này về các tổ chức Phật giáo ở Úc
trong các lĩnh vực hoạt động dấn thân xã hội không ủng hộ quan điểm này của
Bucknell.
Có một
sự dấn thân quy mô lớn trong lĩnh vực phúc lợi xã hội và hoạt động giáo dục của
96% trong số các tổ chức Phật giáo, của cả những người nhập cư và của người bản
xứ. Trong đa số các trường hợp, đóng góp của những tổ chức Phật giáo thuộc những
người nhập cư là vượt qua được cộng đồng văn hoá hay sắc tộc của họ. Quan điểm
của Bucknell là không chính xác, rằng có hai loại hoạt động Phật giáo nhập thế ở
Úc: những hoạt động ở lĩnh vực chăm sóc người bệnh và những hoạt động ủng hộ cứu
tế xã hội ở hải ngoại và những đề án phát triển. Mặc dù hai lĩnh vực này là điển
hình trong số những hoạt động nhập thế ở Úc, phạm vi bao quát và rộng rãi hơn
lại là chín lĩnh vực hoạt động được liệt kê bên dưới.
Trong
bài viết này, tôi định nghĩa Phật giáo nhập thế là sự thực hành Phật giáo mà nó
bao hàm một sự đóng góp giúp giải thoát nỗi đau khổ của chúng sanh gồm cả chính
chúng ta. Quan điểm này được nhà cải cách người Thái Sivaraksa giảng giải một
cách thuyết phục khi ông nói về bản chất của Phật giáo, cho rằng “nó có nghĩa là
trách nhiệm sâu sắc và sự chuyển đổi con người. Để phụng sự, chúng ta phải trở
nên vô ngã hơn và giảm bớt sự vị kỷ. Để thực hiện điều này, chúng ta phải càng
trở nên có trách nhiệm đạo đức hơn trong xã hội. Đây là điều cốt tuỷ của tôn
giáo, từ thời xa xưa cho đến hiện đại.”
Tôi đã
chọn lựa và tập trung vào lĩnh vực giáo dục và phúc lợi xã hội. Đóng góp phúc
lợi xã hội của Phật giáo ở Úc là bao quát và có thể được phân thành chín lĩnh
vực sau:
1. Giáo
dục cộng đồng cho người lớn
2. Giáo
dục trẻ em
3. Làm
việc với bệnh nhân ở các bệnh viện
4. Làm
việc với bệnh nhân và người sắp qua đời ở trong cộng đồng và chăm sóc bệnh nhân
nan y
5. Thăm
hỏi tù nhân
6. Làm
việc với người nghiện ma tuý
7. Gây
quỹ cho người nghèo khó (cả ở Úc và hải ngoại)
8. Diễn
thuyết về nhân quyền và chống áp bức
9. Những
hoạt động từ bi dành cho những loài sống ngoài con người
Trên 96%
trong số những tổ chức Phật giáo được nghiên cứu ở Úc là dấn thân vào những
chương trình giáo dục cộng đồng. Những trường hợp khác nhau được lựa chọn để
minh chứng cho phạm vị các hoạt động và những tổ chức liên quan. Đây không phải
là một sự liệt kê hết mọi khía cạnh. Tổ chức The Friends of the Western
Buddhist, với các trung tâm ở Melbourne, Sydney và Toowoomba ở Queensland,
thực hiện những chương trình giáo dục và giảng dạy rất toàn diện. Họ tổ chức
những buổi pháp thoại công cộng để dạy về nguyên nhân và cách làm vơi giảm khổ
đau, và những chương trình dành cho sức khoẻ tâm thức, giảng dạy những kỹ năng
chung về thiền định và kiểm soát trạng thái căng thẳng. Chi nhánh Toowoomba cũng
tổ chức một chương trình dạy võ công cộng để đẩy mạnh giáo dục sức khoẻ cơ thể.
Tổ chức
Quốc tế Phật Quang Sơn, với các chi nhánh ở Wollongong, Perth, Sydney, Brisbane
và Melbourne, cũng thực hiện các hoạt động cộng đồng giúp phát triển những tư
tưởng cao thượng, gồm các Pháp thoại, thiền định và những chương trình phát
triển. Những chương trình giáo dục văn hoá gồm có cắm hoa, thư pháp và các lớp
dạy nấu ăn chay. Ngôi chùa tại Perth đã thực hiện một loạt các pháp thoại công
cộng và các nhóm thảo luận về đạo đức Phật giáo. Những buổi thảo luận này bao
gồm việc nghiên cứu những vấn đề đạo đức khó như phá thai, ly hôn, đồng tính, tự
tử, trầm cảm và nghiện ma tuý. Mục đích là để phát triển những gì đức Phật đã
gọi là những phương tiện “thiện xảo” liên quan đến đời sống mà chúng giúp làm
tăng trưởng hạnh phúc và giảm thiểu khổ đau của con người trong ánh sáng giáo lý
Tứ Diệu Đế.
Chi
nhánh Brisbane chứng minh một cách rõ ràng rằng những tổ chức của người nhập cư
không chủ yếu phục vụ những cộng đồng cùng sắc tộc của họ trong những lĩnh vực
giáo dục và phúc lợi xã hội. Sự thật rằng họ thực hiện những lớp dạy Hoa ngữ và
văn hoá hàng tuần mà chúng mở cửa cho công chúng nói chung nhưng chủ yếu là
người Hoa theo học; tuy nhiên, họ cũng thực hiện những chương trình trường công
(miễn phí) giảng dạy về văn hoá Trung Hoa và Phật giáo, mà có hơn 10.000 trẻ em
tham gia mỗi năm. Có một số chùa chiền được giao điều hành những chương trình
này toàn thời gian.
Thêm
vào, Những ngôi chùa thuộc Phật Quang Sơn ở Brisbane, Perth và Melbourne thực
hiện những lễ hội lớn cho công chúng Úc vào ngày Vesak. Lễ hội ở Brisbane là một
sự kiện lễ hội và giáo dục được thực hiện ở South Bank, trung tâm của thành phố,
đã thu hút hàng ngàn người Úc bản địa. Lễ hội có sự tham gia của những nhóm văn
hoá khác nhau, và nó thúc đẩy sự hoà hợp xã hội bằng việc giới thiệu đến công
chúng đủ loại thực hành và truyền thống văn hoá. Tổ chức Hospice of Mother
Tara ở Tây Úc thực hiện một số hội thảo công cộng về những vấn đề đạo đức
hiện nay từ một cái nhìn Phật giáo với mục đích cụ thể là trợ giúp các thành
viên của cộng đồng phát triển sự hiểu biết đúng đắn.
Họ cũng
điều hành một số đạo tràng tu học để khuyến khích cộng đồng tham gia thiền định.
Tổ chức Buddhist Peace Fellowship, với các chi nhánh ở Melbourne và
Sydney, chỉ trên một thập kỷ, đã điều hành một chương trình giáo dục cộng đồng
rất năng động về những vấn đề then chốt liên quan đến phúc lợi xã hội. Chương
trình bao gồm những vấn đề về quyền của người Thổ dân, những tác động của toàn
cầu hoá, và quyền của những người Đông Timo. Hiện tại họ đang thực hiện một loạt
các thảo luận về giáo dục đối với những phiến quân ở Mexico. Họ cũng điều hành
những buổi hội thảo huấn luyện cộng đồng về những vấn đề chống bạo lực, thiền
định, giải quyết xung đột và kiến tạo hoà bình. Họ tích cực trong việc chóng
toàn cầu hoá, giải trừ vũ khí hạt nhân, và đòi quyền cho những người Thổ dân.
Tất cả
những tổ chức Phật giáo đều nhấn mạnh sự cần thiết của việc giảng dạy Pháp
(dharma) cho cộng đồng, vì khổ đau được cho là có nguồn gốc căn bản từ suy nghĩ
và hiểu biết của con người. Họ cho rằng nếu con người muốn giải thoát khỏi khổ
đau, thì họ cần phải hiểu giáo lý Tứ Diệu Đế. Các tổ chức Tây Tạng giải thích
rằng nhiệm vụ trọng tâm của họ đối với việc giáo dục cộng đồng là vì hạnh nguyện
Bồ-tát. Bồ-tát là người đã đạt được giác ngộ, nhưng thay vì từ bỏ cõi đời, vẫn
làm việc để giải thoát khổ đau. Chiều sâu của nhiệm vụ này kết nối sâu xa với
lời nguyện từ bi vô lượng của Bồ-tát:
“Tôi
nguyện giải thoát tất cả chúng sanh. Tôi nguyện cứu độ toàn thể thế giới hữu
tình ra khỏi những sợ hãi của sanh, già, bệnh, tử và tái sinh, khỏi những sợ hãi
của mọi việc làm phạm giới, của tất cả những tình trạng đau khổ. Những nỗ lực
của tôi không chỉ nhằm vào sự giải thoát cho riêng mình. Và với sự trợ giúp của
con thuyền bát nhã, tôi nguyện cứu vớt tất cả những chúng sanh này ra khỏi dòng
luân hồi, mà nó rất khó để vượt qua… Tôi quyết ở lại trong mỗi cảnh giới khổ đau
từ vô lượng kiếp; và như vậy tôi sẽ giúp tất cả chúng sanh đều được giải thoát.”
Các tổ
chức Phật giáo Trung Quốc nhấn mạnh rằng, động cơ dấn thân của họ vào những hoạt
động phúc lợi xã hội là noi theo hạnh nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm, vị Bồ-tát của
lòng từ bi. Các tổ chức Theravada nhấn mạnh tầm quan trọng của Bát Chánh Đạo.
Con đường này bao gồm việc phát triển chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Kết quả của việc
giảng dạy con đường đường Trung đạo này, các cá nhân có thể có cơ hội để tạo nên
những phẩm chất này trong đời sống của họ. Họ nhấn mạnh những lời dạy của đức
Phật trong các bản kinh, chẳng hạn như: “Người có được sự hiểu biết này và có
trí tuệ lớn thì không nghĩ đến việc làm hại mình hại người, không làm hại cả
hai. Vị ấy nghĩ đến lợi ích của bản thân và lợi ích của người khác, lợi ích của
cả hai, và nghĩ về lợi ích của toàn thể thế giới. Bằng cách ấy vị ấy thể hiện sự
hiểu biết và trí tuệ rộng lớn.”
Những
hoạt động giáo dục cộng đồng quan trọng khác bao gồm việc đối thoại liên tôn và
những hoạt động hoà giải. Ni sư Sumedha từ Trung Tâm Phật Giáo Quốc Tế ở Darwin
tham gia tích cực vào những hoạt động liên văn hoá và tôn giáo. Tổ chức này nhấn
mạnh vào việc xây dựng hoà hợp xã hội trong một cộng đồng đa văn hoá. Nó dấn
thân vào chương trình hoà giải quốc gia với những cộng đồng thổ dân. Nền tảng
triết học của đề án này nằm ở nơi sự nhận thức Phật giáo về sự tương thuộc của
tất cả chúng sinh và kết quả của hoà hợp xã hội có thể được tạo ra thông qua
việc thực hành tuệ quán này. Đề án Tara ở Sydney cũng dấn thân tích cực vào quy
trình hoà giải và đối thoại liên tôn. Tổ chức này thực hiện việc định hướng văn
hoá và tôn giáo và giáo dục cho những người lập kế hoạch làm việc ở nơi môi
trường thế giới thứ ba. Lại có sự nhấn mạnh đáng kể vào việc tôn trọng sự đa
dạng và vào sự nối kết tương thuộc cuối cùng của tất cả chúng sanh.
Chỉ có
hai tổ chức trong số 54 đối tượng nghiên cứu đã không tham gia vào bất cứ đề án
giáo dục hay phúc lợi xã hội nào. Một tổ chức Phật giáo Theravada và một tổ chức
Thiền. Cả hai nói rằng lý do hiện diện của họ là để đem lại một đạo tràng thực
hành thiền định chuyên sâu dành cho những thành viên của họ. Cả hai biện luận
rằng đã có đủ những đề án giáo dục và phúc lợi xã hội cho cộng đồng do những tổ
chức Phật giáo khác thực hiện.
Giáo dục
trẻ em
Khoảng
60% trong số các tổ chức Phật giáo được phỏng vấn là thực hiện những chương
trình giáo dục cho trẻ em. Văn hoá và ngôn ngữ được một vài tổ chức như Phật
giáo Won ở Sysney thực hiện, giảng dạy những chương trình Hàn ngữ. Những tổ chức
thuộc Phật Quang Sơn thực hiện những chương trình dạy Hoa ngữ cho trẻ em cũng
như những buổi cắm trại Phật pháp, giải trí cho giới trẻ và những chương trình
Phật pháp khác. Đề án Tara đã được trao thưởng vì chương trình trao đổi sinh
viên mới mẻ của nó giữa giới trẻ Úc và Nepan. Sự trao đổi này đóng góp có ý
nghĩa cho việc hiểu các nền văn hoá khác nhau. Hai tổ chức Buddhist Society of
Western Australia và Buddhist Society of Northern Territory có những chương
trình tích cực tại các ngôi trường giảng dạy cho trẻ em Úc về Phật giáo, cũng
như những buổi Phật pháp dành cho trẻ em. Giáo hội Phật giáo Linh Sơn ở
Melbourne có một sự khởi đầu mạnh mẽ, tập trung điều hành những chương trình
thiền định, ngôn ngữ và thể thao. Họ cũng cung cấp những chương trình tư vấn và
thiền định cho những gia đình có trẻ vị thành niên nghiện ma tuý.
Tất cả
những tổ chức nói rằng chương trình giáo dục trẻ em đem lại một cơ hội lý tưởng
giúp trẻ em kinh nghiệm và thực hành lòng từ bi đối với nhau và đối với tất cả
chúng sanh. Lòng từ bi được xem là giá trị cốt tuỷ trong việc tu tập làm lợi ích
tất cả chúng sanh, và là một phần trọng tâm của đạo Phật. Kinh Từ Bi liệt ra 50
phước đức có được thông qua việc thực hành từ bi. Việc tu tập lòng từ bi này
cũng là điểm cốt lõi của chương trình gia đình do trung tâm tu tập Phật giáo
Nguyên thuỷ ở Balingup, Tây Úc thực hiện. Chương trình được tổ chức vào cuối
tuần để cho các gia đình trãi nghiệm và chia sẻ phẩm chất này.
Thêm
vào, nhiều tổ chức Phật giáo nhấn mạnh tầm quan trọng của những hoạt động Phật
giáo dành cho trẻ em để các em phát triển sự hoà hợp trong gia đình và cộng đồng
xã hội. Tổ chức Buddhist Society of Western Australia điều hành một chương trình
giáo dục tích cực cho trẻ em, cả trẻ em nhập cư cũng như trẻ em phương Tây.
Trong việc giáo dục cộng đồng, người lớn và trẻ em, những tổ chức từ mọi truyền
thống xem điều này là một phần cốt tuỷ của Phật giáo. Họ giải thích rằng nhiệm
vụ của Phật giáo là giảng dạy Tứ Diệu Đế, để giúp người ta học hỏi về nguyên
nhân khổ đau của họ và những phương tiện thiện xảo vượt qua khỏi khổ đau đó
thông qua việc giải thích những khía cạnh của Bát Chánh Đạo. Tất cả những chương
trình trong trường hợp này thấy công việc giáo dục của họ là nhiệm vụ của truyền
thống Phật giáo lâu dài, và cũng là việc truyền bá giáo pháp để làm tăng trưởng
hạnh phúc con người và giải thoát khổ đau.
Làm việc
với người bệnh và người sắp qua đời tại các bệnh viện
Khoảng
54% trong số các tổ chức Phật giáo được nghiên cứu là tích cực dấn thân làm việc
với người bệnh ở các bệnh viện và các viện dưỡng lão. Họ làm việc với người bệnh
và người sắp qua đời trong một số chương trình chính thức và không chính thức.
Có một
sự chấp nhận chung rằng khoảnh khắc quan trọng nhất là khoảnh khắc hiện tại, và
sống trọn vẹn với giây phút hiện tại là điều được đề cao. Nhờ vào cái nhìn và
cách hiểu đúng đắn này người ta có thể phát triển niềm an vui lớn hơn. Những tổ
chức này cho rằng môi trường mà các bệnh viện Phật giáo đem lại là mở cánh cửa
cho các bệnh nhân thấy được ý nghĩa của khoảnh khắc hiện tại để họ vượt qua
những khổ đau vật lý. Khác với việc sống trong một trạng thái sợ hãi, thất vọng
hay né tránh, Phật giáo đưa ra một phương cách chuyển đổi kinh nghiệm thành một
kinh nghiệm của an bình, tu học và phát triển lòng từ.
Những tổ
chức Theravada nhấn mạnh rằng làm việc với bệnh nhân và người sắp qua đời của họ
là noi theo tấm gương từ bi của đức Phật, và bởi xem những nhu cầu của bệnh nhân
và người sắp qua đời là đáng ưu tiên hơn cả. Họ trích dẫn câu chuyện đức Phật
tán thán việc chăm sóc người bệnh khi Ngài viếng thăm một tịnh xá. Ở đó, Ngài
chứng kiến trường hợp một tỳ-kheo bị bệnh không được chăm sóc trong khi các thầy
khác thì lo thiền định. Trước tiên, cùng với tôn giả Ananda, đức Phật đã tắm rửa
và chăm sóc thầy bị bệnh, và sau đó khuyên bảo các thầy tỳ-kheo khác rằng chăm
sóc người bệnh là công việc từ bi cần phải ưu tiên.
Quỷ Từ
Tế Phật giáo Đại thừa từ Đài Loan, với các trung tâm ở Brisbane, Perth, Sysney
và Melbourne, cũng đề cao câu chuyện đức Phật giúp đỡ tỳ-kheo bị bệnh, xem đó là
tấm gương để họ hành động theo. Quỹ này thực hiện một chương trình tình nguyện
quy mô ở các bệnh viện, nhà dưỡng lão, bệnh viện dành cho người lớn tuổi, và ở
những trung tâm khuyết tật. Nó cũng rất tích cực trong việc gây quỹ ủng hộ các
trang thiết bị bệnh viện cho các bệnh viện Mater Misericordia ở cả Brisbane và
Melbourne, cũng như một số bệnh viện nhỏ hơn. Mặc dù thành viên của nó chính yếu
là người Hoa, tổ chức này lại là một trường hợp nỗi bật khác về một tổ chức Phật
giáo không phải của người bản địa đã thực hiện những công việc phúc lợi xã hội
rộng lớn cho công chúng Úc.
Những tổ
chức Phật giáo Tây Tạng nhấn mạnh lý do họ phục vụ người bệnh và người hấp hối
là vì họ nhận thấy ý nghĩa quan trọng của giây phút cận tử. Họ nói rằng những
loại suy nghĩ và cảm xúc sinh khởi tại giây phút cận tử của một người ảnh hưởng
sâu sắc đến sự tái sanh của người ấy trong tương lai. Do đó chúng ta có thể có
một sự ảnh hưởng sâu sắc vào tương lai của người khác bằng việc đem lại một môi
trường cho người sắp qua đời mà nó giúp người ấy có một kết quả tái sinh tốt. Họ
xem giải pháp đối với người cận tử này là điều cốt tuỷ trong truyền thống lâu
dài của Phật giáo Tây Tạng.
Làm việc
với người bệnh ở trong cộng đồng
61%
trong số các tổ chức thuộc trường hợp nghiên cứu này dấn thân làm việc với người
bệnh ở trong cộng đồng. Các chương trình có tính sáng kiến bao gồm những phục vụ
chăm sóc bệnh nhân kinh niên. Thêm vào, có những cuộc thăm viếng người bệnh tại
nhà do nhiều tổ chức Phật giáo từ tất cả các truyền thống thực hiện. Những tổ
chức thực hiện những phục vụ này viện dẫn lý do rằng họ dấn thân vào những hoạt
động như vậy là để thể hiện lòng từ bi đối với người bệnh. Một vài cũng nhấn
mạnh sự cần thiết trong việc giảng dạy thiền và những cách suy nghĩ thích hợp
cho người bệnh để họ có thể chế ngự bệnh tật của họ tốt hơn, đặc biệt là các
bệnh mãn tính gắn liền với sự đau đớn.
Hai tổ
chức Phật giáo Tây Tạng ở Queensland, Karuna và Cittimani, là những tổ chức dẫn
đầu trong công việc chăm sóc bệnh nan y giai đoạn cuối ở Úc. Hơn một thập kỷ,
Viện Tara ở Melbourne đã thực hiện những buổi hội thảo hỗ trợ những người lâm
trọng bệnh ở trong cộng đồng để giúp họ giải quyết những trạng thái cảm xúc và
tâm thức rối loạn của họ. Những tổ chức Phật giáo khẳng định rằng công việc này
là tiếp nối sự thực hành chăm sóc người bệnh vốn có mặt lâu dài ở trong Phật
giáo như là một sự thực hành về lòng từ bi.
Viếng
thăm các tù nhân
39%
trong số các tổ chức Phật giáo liên quan đến việc thăm viếng các nhà tù ở Úc.
Những tổ chức này đến từ các truyền thống Đại thừa, Tây Tạng và Theravada.
Hội các
Phật tử Nhập Thế có trụ sở ở Sydney là đại diện mạnh mẽ của Phật giáo nhập thế ở
lĩnh vực làm việc với các tù nhân, những người nghiện, những bệnh viện cho người
sắp qua đời và công việc sức khoẻ. Cộng đồng Phật giáo Victoria rất tích cực ở
trong nhiều nhà tù ở Victoria trong việc tư vấn và giảng dạy thiền định, giải
tỏa căng thẳng, quan tâm các vùng quê cũng như trong việc cung cấp những tài
liệu giáo dục tích cực. Tổ chức Phật Quang Sơn ở Brisname đã đáp ứng những yêu
cầu giúp đỡ các tù nhân và đã viếng thăm những nhà tù xa xôi như Alice Springs ở
miền Trung nước Úc. Khởi đầu từ Chenrezig, trung tâm Phật giáo Tây tạng tại
Eudlo ở Queensland, là một chương trình làm việc với nhà tù do Ni sư Namsung
hướng dẫn.
Lama
Zopa Rinpoche, người đồng sáng lập Chenrezig, cỗ vũ làm việc trong các nhà tù để
giúp những tù nhân thấy rõ khổ đau và tìm sự an bình. Những chương trình ở trong
các nhà tù bao gồm thực hành thiền và những pháp thoại về nguyên nhân của khổ và
cách giải thoát khổ đau. Những giáo pháp khác bao gồm những lời nguyện Bồ-tát về
lòng từ bi, là bổn phận Phật giáo làm việc giải thoát khổ đau của tất cả chúng
sanh; và Tám giới cho việc sống một đời sống thiện lành theo đức Phật dạy.
Mục đích
của những đề án làm việc trong nhà tù là để giúp đỡ các tù nhân. Ni sư Namsung
đã khởi đầu một đề án nhà tù tại Woodford bắc Brisbane. Bà mở các lớp học cho
các tù nhân, giảng dạy cách kiềm chế cơn giận, chuyển đổi suy nghĩ, những vấn đề
về ma tuý và những lợi ích về việc thay đổi lối suy nghĩ của họ về chính họ và
cuộc đời.
Những
người Tây Tạng cho rằng những đề án nhà tù là một sự thể hiện lòng từ bi mà đức
Phật đã dạy. Những công việc phúc lợi xã hội như vậy đã luôn là nhiệm vụ của các
truyền thống Phật giáo, như được thể hiện nơi những lời khuyên của ngài Long
Thọ. Những thành viên thuộc Phật giáo Theravada làm việc ở trong nhà tù cũng
khẳng định rằng giải thoát khổ đau trong nhà tù đã luôn là phần cốt tuỷ đối với
quan điểm và sự thực hành từ bi của Phật giáo. Một tổ chức đã kể lại câu chuyện
một nữ tù đã trở thành một ni cô sau khi ra khỏi tù. Tất cả những tổ chức thể
hiện quan điểm rằng công việc nhà tù là, và đã luôn là, một sự thể hiện cốt tuỷ
lòng từ bi của Phật giáo. Một vài người nói rằng Bồ-tát Long Thọ, trong những
lời khuyên của ngài dành cho những người trị vì, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc đối xử từ bi và bất bạo động đối với những người phạm tội.
Tất cả
các tổ chức nhấn mạnh rằng việc phạm tội ác không có nghĩa là một thói quen làm
ác cố định, và rằng bằng việc đem lại cho tù nhân những phương pháp khéo léo và
cách ngăn chặn khổ đau của họ bằng lòng thương yêu, có thể đem lại những cơ hội
có ý nghĩa cho các tù nhân thay đổi lối sống của họ cả bên trong nhà tù và sau
khi được phóng thích. Một tổ chức Phật giáo kể về chuyện một tù nhân, người
thường xuyên học tập giáo pháp và, mặc dù vốn có lai lịch bạo lực và can tội
giết người, đã phát triển một cái nhìn mới về đời sống của mình. Ông từ chối
tiếp tục làm việc tại một lò mổ trong nhà tù, nơi công việc của ông là làm cho
súc vật bất tỉnh trước khi mổ.
Làm việc
với người nghiện ma tuý
24%
trong số các tổ chức là làm việc tích cực trong việc tư vấn về ma tuý. Tổ chức
Alice Springs Pallyal Dharma tích cực trong việc điều hành một chương trình giúp
đỡ người nghiện ngập. Hội Vipasana ở Victoria, thông qua Quỹ Buoyancy, đã hướng
dẫn việc thực hành thiền định cho những người nghiện ma túy.
Những tổ
chức này xem việc giảng Pháp có thể đem đến cho người nghiện một phương cách tốt
trong việc giải quyết những căng thẳng trong đời sống của họ. Một vài tổ chức
cũng nhấn mạnh việc hành xử từ bi với người nghiện, giúp họ có thể tìm lại ý
nghĩa giá trị bản thân. Giáo hội Phật giáo Linh Sơn đặt tại Melbourne, một tổ
chức của người Việt, cũng làm việc nhiệt tình với giới trẻ và trong việc tư vấn
cho những người nghiện ngập. Tất cả những tổ chức Phật giáo dấn thân trong việc
tư vấn về ma tuý và phục hồi ở Úc xem điều này như là một nhiệm vụ không thể
thiếu của truyền thống Phật giáo. Điều này được đặt cơ sở trên việc giữ Năm giới
mà nó bao gồm tránh sử dụng ma tuý và rượu, những thứ làm tăng thêm sự rối loạn
tâm thức.
Gây quỹ
cho người nghèo khó ở Úc
Bố thì
tiền tài, thời gian, năng lực, kỹ năng và tài sản là giúp phát triển tâm Phật từ
bi ở trong mình. Đây là quan điểm của hơn 61% trong số những tổ chức Phật giáo ở
Úc, những tổ chức tích cực tham gia vào việc gây quỹ cho người nghèo khó ở Úc.
Đề án
Tara là một chương trình hỗ trợ đa phương diện ở Sydney mà nó làm việc với những
người nghiện rượu và ma tuý, cũng như điều hành những đề án phục vụ lợi ích phụ
nữ và trẻ em để làm vơi giảm nghèo khó. Tổ chức khác dấn thân tích cực trong
việc gây quỹ cho những người gặp hoạn nạn ở Úc và cho những người tỵ nạn nước
ngoài là Giáo hội Phật giáo Linh Sơn và Hội Tăng Già Phật giáo Liên Hoa.
Bảo trợ
cho những tăng sĩ nghèo là thực hành chung trong số những tổ chức Phật giáo với
các vị thầy Tây Tạng. Trung tâm Phật giáo Brol-Kar ở Geelong đã tài trợ một
website thiết lập một trường học ở Tây Tạng cho những trẻ em Tây Tạng nghèo khó.
Tổ chức Phật Quang Sơn tại Victoria tích cực trong việc tài trợ học bổng cho một
trường Phật giáo Trung Quốc tại Úc. Quỹ Từ Tế Phật Giáo Tua-Chi là một tổ chức
quốc gia với các chi nhánh gây quỹ cho những nạn nhân địa phương, cũng như hỗ
trợ thường xuyên cho người nghèo. Họ có những tình nguyện viên thường xuyên giúp
đỡ các tổ chức từ thiện, trong việc gây quỹ và quyên góp thực phẩm, áo quần và
đồ đạc hiến tặng. Tổ chức Amitabha đã thực hiện một chương trình hiến tặng thực
phẩm đáng kể cho những trẻ em Thổ dân, những người nghèo nhất và là nhóm thiệt
thòi nhất ở Úc.
Lên
tiếng về nhân quyền và chống áp bức
24%
trong số các tổ chức Phật giáo ở Úc dấn thân vào những hoạt động như vậy. Các tổ
chức Tây Tạng tích cực hoạt động nhân quyền cho Tây Tạng, trong khi các tổ chức
Phật giáo Đại thừa chủ yếu làm việc cho nhân quyền ở Trung Quốc… Tổ chức Friends
of the Western Buddhist Order tận tâm làm việc để hỗ trợ các quyền và những hoạt
động gây quỹ cho những người tiện dân ở Ấn thông qua đề án Karuna của họ. Tổ
chức Buddhist Peace Fellowship thì rất tích cực trong những chiến dịch ủng hỗ
nhân quyền cả ở Úc và hải ngoại. Những chương trình ở Úc bao gồm quyền của tù
nhân, quyền của người Thổ dân, và quyền của công nhân trong kỷ nghệ may mặc.
Trong
việc nói về nhân quyền, và trong việc chống lại những đàn áp chính trị và bất
công, những tổ chức Phật giáo giải thích rằng ánh sáng cần được rọi chiếu vào
những nơi tăm tối; và việc tranh đấu hoà bình là vì sự thật và công bằng, và để
giải thoát người khác ra khỏi sân hận và vô minh. Họ nói rằng đức Phật đã từng
phản đối sự đàn áp nhân quyền khi Ngài phê phán sự phân biệt đối xử với những
người đẳng cấp thấp, phân biệt đối xử với phụ nữ và muông thú. Họ xem công việc
của họ là tiếp tục khía cạnh này của Phật giáo, làm việc cho sự tự do và giải
thoát con người ra khỏi khổ đau.
Những
hoạt động từ bi vì lợi ích của các loài sống khác
Mặc dù
chỉ 11% trong số các tổ chức có những chương trình vì lợi ích muông thú, nhiều
tổ chức khác nói rằng mọi người nên có trách nhiệm đối với lợi ích của muông
thú. Viện Tara ở Sydney nổi bật vì dự án lợi ích muông thú của nó, mà nó đang
được phát triển trong sự liên kết với Hiệp Hội Thú ý Nepal. Họ huấn luyện những
người chăm sóc muông thú và lập kế hoạch cho những chiến lược lâu dài vì lợi ích
của muông thú và giáo dục cộng đồng. Bệnh viện Mẹ Tara ở Bunbury tận tâm với một
chương trình lợi ích muông thú bao gồm việc mua và phóng sanh hàng trăm chuồng
gà và những thú vật khác đang đối diện với cái chết, chẳng hạn như trai sò ở các
nhà hàng, gia súc ở các trại chăn nuôi, và những con chó trong những trại nuôi
công cộng. Giáo hội Phật giáo Linh Sơn cũng đang làm việc chống lại sự mổ xẻ
động vật và hỗ trợ quyền muông thú ở Úc. Tổ chức Buddhist Peace Fellowship vận
động chống lại sự bóc lột ngựa trong việc sản xuất thuốc điều trị.
Chỉ 4%
trong số các tổ chức dấn thân vào công việc từ bi vì lợi ích của những người
sống trong rừng ở Úc. Sự cần thiết cho công việc như vậy ở Úc được University of
New South Wales Buddhist Society (Unibuds) thừa nhận, với các thành viên thực
hiện những chiến dịch cứu lấy những người rừng bản địa. Tổ chức Buddhist Peace
Fellowship là tích cực trong những buổi hành thiền và trong việc tạo ra một sự
hiểu biết chung về việc tôn trọng cây cối và muông thú. Hội Phật giáo Victoria
là tích cực trong những chương trình trồng cây ở Úc cũng như những ngày “Quét
dọn nước Úc” (Clean Up Australia). Nhiều tổ chức Phật giáo không thuộc người bản
địa, bao gồm Phật Quang Sơn, Từ Tế và Giáo hội Linh Sơn, đã thường xuyên tham
gia vào ngày “Quét dọn nước Úc”.
Thế giới
quan mà những tổ chức Phật giáo này nhấn mạnh là: tất cả chúng sanh đều có quan
hệ hỗ tương; và phúc lợi xã hội được xem là bao gồm tất cả chúng sanh. Những tổ
chức Tây Tạng đặc biệt tích cực trong việc phóng thích những thú vật đang đối
mặt với cái chết, khi họ đưa ra quan điểm rằng điều này có những ảnh hưởng sâu
sắc vào việc chuyển đổi nghiệp cả chúng sanh đối mặt với cái chết và cả những
người giải thoát nó. Họ tụng đọc mỗi ngày rằng: “Cầu cho tất cả chúng sanh thoát
khỏi khổ đau. Cầu cho tất cả chúng sanh hạnh phúc.”
Tôi
không tìm thấy tổ chức Phật giáo Theravada nào ở Úc dấn thân vào những dự án
phúc lợi xã hội dành cho những chúng sanh ngoài con người vào thời điểm này.
Những tổ chức Đại thừa giải thích rằng làm việc để phát triển lợi ích của những
chúng sanh ngoài con người đã luôn là một phần then chốt của lời dạy đức Phật.
Thêm vào công việc cộng đồng của họ, những tổ chức này thực hành ăn chay tại
chùa và giáo dục công chúng về sức khoẻ và thực hành ăn uống với lòng từ bi.
Kết luận
Các tổ
chức Phật giáo ở Úc tập trung vào vấn đề khổ đau của con người và tìm kiếm những
phương cách làm vơi giảm và đoạn trừ nó. Vào thời điểm giác ngộ, đức Phật khám
phá ra bản chất, nguyên nhân và phương pháp đoạn trừ khổ đau. Điều này hình
thành nên đại trí tuệ của Ngài. Và trí tuệ này giúp phát khởi lòng từ bi rộng
lớn. Rõ ràng những tổ chức Phật giáo ở Úc thể hiện trách nhiệm sâu rộng khi chỉ
dạy những phương tiện thiện xảo và thực hành những việc làm từ bi vì lợi ích của
đời sống hữu tình. Họ xem việc làm của họ là tiếp nối lời dạy của đức Phật và
cần thiết đối với Phật đạo.
Kết quả,
có một sự dấn thân sâu rộng vào những chương trình giáo dục dành cho cả người
lớn và trẻ em, giảng dạy về những kỹ năng sống theo Pháp (dharma). Công việc
phúc lợi xã hội mà họ đang thực hiện tạo nên một đóng góp ý nghĩa cho lợi ích
của xã hội Úc. Các tổ chức thực hiện những công việc thật sự cần thiết, như làm
việc trong các nhà tù, trong suốt thời kỳ khủng hoảng, và với những người nghèo
và những người khổ đau do nghiện ma tuý. Nhiệm vụ đối với lợi ích của tất cả
chúng sanh của họ cũng khiến họ dấn thân vào những hoạt động vì lợi ích của
muông thú và môi trường tự nhiên.
Bài viết
này là một mô tả về sự dấn thân của Phật giáo trong những hoạt động giáo dục và
phúc lợi xã hội ở Úc. Những giá trị tìm thấy của bài viết này hỗ trợ quan điểm
rằng những tổ chức Phật giáo xem sự dấn thân vì giáo dục và phúc lợi xã hội của
họ không phải là một hiện tượng mới, mà nó là một sự thực hành tiếp nối con
đường Phật giáo./.
Patricia
Sherwood (Phân khoa Nhân loại học xã hội, Đại học Edith Cowan)
Nguyên
Hiệp lược dịch
Nguồn:
Journal of Buddhist Ethics, Vol. 8, các tr. 61-74