Diệu Kim
10g30 sáng thứ bảy...
Chuẩn bị đi Bến Tre. Quà cho tụi nhỏ nhiều quá, mấy bịch to tướng,
xe bus không chịu chở đâu. Mấy lần chứng kiến nhân viên
xe bus cằn nhằn khách, thậm chí la những người khách nhà quê chở đồ lên
phố, chắc cho con đang đi học, thấy thương!
Vậy mà luôn miệng quảng cáo "Chúng ta cùng bus!" Thôi,
bây giờ chịu tốn tiền đi xe ôm từ quận 4 ra tới Xa cảng.
Hai chiếc mới chở hết đồ, mất 60.000 đồng. Xót ruột.
Lại còn nắng, mới đầu xuân mà gắt quá.
Ra Xa cảng, phải vác ba lô đi khá xa mới tới chỗ bán vé, rồi quay trở lại nhờ
hai chú xe ôm vác quà ra xe đò. Nếu mình đi xe bus thì ai trông đồ cho mua vé, ai khiêng nổi suốt 200m?
Có nhiều người hỏi: "Sao không thuê xe đi cho khỏe?".
Trời đất, một buổi giảng mà tốn 700.000 đồng thuê xe,
tiền đâu xài sang dữ vậy! Một năm tôi đi 20 lần, 5 năm là bao
nhiêu tiền? Nhưng dù có tiền cũng không dám xài cỡ đó,
trong lúc phải đi vận động kinh phí từng chút một.
Năm 2004, thầy Phổ Hòa lén kêu Bác sĩ Minh thuê chiếc xe cho tôi đi, vì lần ấy
giảng tới 5 lớp (tận dụng kỳ nghỉ phép thường niên kéo dài 1 tuần), và chở 12
thùng quà to tướng. Tôi biết được, la oai oái, rồi đi xe đò. Tiết kiệm được 500.000 đồng, nghĩa
là mua cho các em được 500 cái bánh. Đi vận động kinh
phí rồi mới biết, khó khăn lắm, cho nên phải tiết kiệm một chút.
12g30
Nói
12g xuất bến, mà thực sự giờ này mới ra khỏi cái barie chặn cổng. Bắt
đầu chạy như rùa đây, vì sợ bắn tốc độ, mình đi hoài, quá quen cái điệp khúc rùa
này!
Xe 50 chỗ, cũng có máy lạnh đàng hoàng, nhưng tắt ngúm.
Khách ở quê, đặc biệt mấy chỗ "thiệt là quê" như Tam Nông, Hồng Ngự, Bến Tre,
Lấp Vò, Bình Minh, không quen máy lạnh, cứ đòi mở cửa sổ cho gió mát. Nhưng mát nỗi gì, trời nắng chang chang, hắt từ đường nhựa lên rát
bỏng da mặt. Lại còn bụi, trời ơi là bụi của hàng trăm hàng ngàn
xe đò xe tải lưu thông suốt trên quốc lộ. Thỉnh thoảng, có một khúc đường đang làm dang dở, bụi đá mịt mù, hít
vô một cái, cảm giác thiệt rõ cái phổi mình đóng thêm một lớp đen sì. Rồi
mắt, rồi mũi, tóc tai, quần áo... Chao ôi cái cõi bụi trần! Không có bụi làm
sao thành nhân gian cho Thượng toạ Thần Tú viết bài kệ: "Thân là cây bồ đề.
Tâm như đài gương sáng.Thường ngày hằng lau quét. Chớ
cho dính bụi trần." Ờ, có bụi nên mình phải lau quét
thôi.
Lại tẩn mẩn thương người nhà quê của mình.
Đồng hương đồng khói chớ đâu xa. Mấy năm nay người nhà quê toàn đi xe
xịn, từ 50 chỗ tới 25, 15 chỗ, nào Mercedès, nào Toyota, nào Ford, năm bảy trăm
triệu là thường. Dân miền Tây có phước, chứ không như dân miền Trung chịu cảnh
cơm tù, nhét người dưới gầm chở hàng, trói trên nóc xe,
hoặc tháo ghế ra bắt khách ngồi chen dưới sàn. Nhưng khổ nỗi, người nhà quê mình chưa hiện đại kịp, và đầu tiên là
dị ứng với cái máy lạnh. Thế là, chiếc xe mấy
trăm triệu cũng phải mở cửa ra hứng bụi. Mà đóng cửa thì làm sao hút thuốc? Thôi, mở luôn đi cho phà
khói vô tư! Đàn bà, con nít có sặc sụa cũng chẳng dám nói gì.
Chỉ có đi xe Vĩnh Long, Sa Đéc, là hai tỉnh gần cầu Mỹ Thuận nhất, xem ra "văn
minh" hơn cả. Xe máy lạnh răm rắp, ai mở cửa, hút thuốc đều được nhắc nhở, cả
tài xế cũng nhịn thuốc 100%. Mới đầu, khách khó chịu, riết rồi quen, tự động chấp hành, khỏi
nhắc. Mà thôi, từ nay thế giới kêu gọi tiết kiệm năng
lượng, chắc phải tắt máy lạnh rồi đó. Chắc đến lượt người nhà quê thương lại dân thành phố khổ sở vì không
quen chịu nóng, chịu bụi. Than ôi, mỗi ngày ở thành phố con hít bao nhiêu
là bụi rồi dì ơi, còn dì lâu lâu đi xe mới hít nên
dì... chưa ngán. Dì về tới nhà là có ngay cánh đồng xanh thăm thẳm và ngọn gió
trong lành lọc ngay cái phổi giùm dì... Ủa, cãi nhau làm chi,
muốn vậy thì về quê mà ở, ai cấm. Ừa, đã chọn ở thành phố thì ráng chịu.
Thôi, đã nói là tiết kiệm năng lượng cho thế giới thì vui vẻ đi.
Ngủ nghen. Niệm Phật thầm trong đầu
rồi từ từ ngủ. Cảm ơn ông tài xế xe
này không mở nhạc um sùm. Mấy ông khác "tra tấn" tôi suốt 4 tiếng đồng hồ bằng
thứ nhạc trẻ thời thượng, ca từ thì vô duyên, còn giai điệu thì rẻ tiền lại ầm
ĩ, nhức buốt cả đầu. Đi xe, sợ nhất là nghe nhạc kiểu
đó.
14g
Giấc
ngủ vừa lơ mơ thì nghe gọi: "Xuống xe qua phà bà con ơi!" Phà Rạch Miễu bắc từ
Mỹ Tho, qua bên kia sông mới là địa phận Bến Tre.
Vác ba lô bước xuống. Má ơi, nắng kinh khiếp! Đầu choáng váng, quay một vòng. Ba lô nặng quá, đau điếng cái "vai gầy" mà hồi xưa có người thường
âu yếm gọi. Vài bộ đồ thì lẽ ra không nặng đến thế, nhưng vì chất thêm
giáo trình, giáo án, sổ điểm, 50 bộ đề thi dày cộm, rồi một xấp mẫu tranh tô
màu, rồi máy cassette, băng ca nhạc để dạy các em hát hò, sinh hoạt... Ráng đi!
Xuống tới phà, thở khì, và len lén đặt ba lô lên yên sau của một chiếc honda cho nhẹ tay. Hai đứa con trai con gái còn trẻ măng, chở
nhau, ngồi sát tới nỗi cái yên còn dư một khúc. Tụi nó cứ tự
nhiên rúc rích cười nói thì thầm, coi bộ hạnh phúc quá chừng.
Chắc nhiều người chướng mắt. Nhưng thôi, kệ tụi nó. Biết đâu những ngày
vui này sẽ rất ngắn ngủi, rồi tụi nó sẽ phải đương đầu với bao nhiêu đau khổ, lo
toan. Chúc cho tụi nó được như vầy hoài, còn hơn chứng kiến cảnh cắn
đắng, chia tay.
Dòng sông rộng quá. Phà chạy rất lâu.
Gió sông thổi tung
bay vạt áo. Gió chợt làm se buồn. Cứ mỗi lần nghe gió, nghe mưa, tâm thức bỗng mênh mang một điều gì
không rõ, chỉ biết là buồn. Nắng chấp chới trên mặt
nước, bến bãi mờ xa tít tắp. Đất đồng bằng quen thuộc, cứ bước ra là gặp
những dòng sông tuổi thơ trôi dài theo năm tháng... Mình đã đi qua những chuyến phà cuộc đời, giã từ tuổi thơ, đâu còn
quay lại được...
Phà cập bến. Đi dọc theo
chiếc cầu, nhìn xuống bãi đất bùn lộ ra vì nước ròng, tuổi thơ lại níu chân lần
nữa. Những bãi bùn ẩn giấu những con hến bé xíu ngày xưa tôi thường bắt đem về
cho bữa cơm gia đình. Nhà nghèo, quanh năm chỉ biết con hến con cua con cá, còn
miếng thịt quả thật xa vời. Hai chị em tôi trở thành những đứa
trẻ quê thực sự, suốt ngày lặn hụp nơi bến bãi, mương đìa, quên mất cái gốc thị
thành nơi mình đã chào đời. Tôi có thể nhìn mặt bùn mà biết nơi nào có lỗ
thở của con hến, chỉ cần đưa nhẹ ngón tay xuống vít lên là được một chú rất to,
không cần phải dùng cả bàn tay mà bóp bùn hoặc lấy rổ cào như lũ mới "vào nghề". Tôi kiên nhẫn bắt đến khi nào đầy rổ mới chịu thôi, coi như một
"định mức" mà tôi tự đặt ra cho mình và phải hoàn thành.
Ngược lại, thằng Dũng em tôi lại không chịu tỉ mẩn như thế, nó
thích làm cái gì cho nhanh, có nhiều mới ham. Bảo nó bắt hến, nó miễn
cưỡng xuống bãi, rồi nhắm hơi hơi vừa đủ bữa ăn
liền dông lên bờ. Nó nói, mấy con hến nhỏ xíu, chán thấy mồ.
Nó bươn bả đi tát mương, bắt cá lóc cá rô bự hơn, hoặc lùng sục trong đám lục
bình dù lúc 5g sáng trời lạnh như cắt để xúc lên những con cá bống dừa tròn vo
hấp dẫn. Tính cách của hai chị em đã hiện ra rất rõ từ dạo ấy.
Sau này, tôi lớn lên, kiên nhẫn góp nhặt từng đồng lương và nhuận bút nhỏ nhoi
để sống, xây nhà, còn em tôi sau thời gian đi bộ đội đã dấn thân vào những
chuyến đi buôn ở Campuchia, có cả sòng bạc may rủi và cả những bãi đào vàng
nghiệt ngã, để cuối cùng chết trẻ vì căn bệnh sốt rét ác tính. Nhìn bãi bùn mà
nhớ em, nhớ một thời cơ cực nơi bến sông nghèo...
15g
Lại
một chuyến phà. Phà Hàm Luông. Xe đậu rất
xa bến, vác ba lô đi mệt mỏi, lòng cứ lo liệu vài năm nữa còn sức để đi hoằng
pháp vùng sâu vùng xa như thế này hay không?
Cầu mong một thế hệ trẻ lớn lên, tình nguyện xông pha
về quê, để tôi có thể yên lòng dừng bước. Tôi đâu có sợ cực,
chỉ sợ mình không còn sức mà đi. Cho nên, đặt hy vọng
vào người trẻ mai sau.
15g30
Xe
đò thảy tôi và mấy bọc đồ to tướng xuống ngã tư Cái Quao, qua khỏi thị trấn Mỏ
Cày gần chục cây số. Từ Cái Quao, tôi đón
xe ôm vô xã. Anh honda
ôm chừng ba mấy tuổi, sốt sắng chất hết đồ lên xe, thật tài tình, trong khi ở
Sài Gòn mấy anh xe ôm cứ loay hoay rớt lên rớt xuống, rốt cuộc phải tốn hai xe.
Người quê chịu cực giỏi hơn mà! Và anh ta cứ sợ tôi ôm giỏ nặng, khăng khăng
treo hết cho tôi nhẹ tay. Tội nghiệp, chạy xe
mà có cái tình! Nghe tôi vô chùa, anh càng sốt sắng.
Nhưng chạy mãi, hết đường nhựa, tới đường đá nhỏ, tới đường cát, còn vết nước
lầy lội, rồi tới đường đất nhỏ xíu... vẫn không thấy chùa đâu. Tôi gọi di động vô nhà Phật tử của sư cô, người ta chỉ đường.
Chao ôi, khi con đường đã cụt ngọn thì chùa mới hiện ra.
Nghĩa là, tới nơi tận cùng của cái ấp 50 xã Bình Khánh Đông, đi vài chục bước là
ra bến sông luôn. Sư cô dám về nơi này hở Sư cô?
16g30
Sư
cô cười: "Còn may lắm đó! Kim về hôm qua là phải lội nước bì
bõm. Triều cường dâng nước biển lên mấy bữa nay, ngập hết mấy liếp rau,
chết ngắt, rồi tràn vô nhà bếp. Sư cô đang rầu, sợ Kim về cực quá!" Anh
honda ôm cũng vừa chỉ cho tôi những ngấn nước trên đường và nói nước mới
rút hồi sáng. Tôi nhìn ra liếp rau muống tong teo bên phía trái chùa, chẳng còn
cọng nào ngóc đầu lên nổi. Một dì Phật tử nói: "Ở đây nước mặn lên hoài cô ơi,
chỉ có cây dừa là sống được."
Tôi đã thấy những hàng dừa xõa bóng dọc đường làng và những
cụm dừa nước xanh rì dùng để chằm lá lợp nhà.
Chợt nhớ câu hát "Ai đứng như bóng dừa, tóc dài bay trong gió, có phải người còn
đó, là con gái của Bến Tre..." Nhưng cuộc sống thực không thi
vị như thế đâu. Cây dừa gánh biết bao nỗi niềm của người nông dân, vì tất cả đều
trông đợi vào cây dừa. Một chục 12 trái chỉ có 18.000
đồng, còn tuốt lá ra lấy cọng bán cho thủ công mỹ nghệ thì một ký chỉ 2.000
đồng. Trời ơi, tưởng tượng 1kg cọng thì tuốt mất cả ngày trời! Sư cô buồn
buồn: "Nhà nghèo nhiều lắm Kim ơi. Thấy thương lắm.
Cả xóm đông vầy mà chỉ có 2, 3 cái nhà tường, nhờ con cái đi
làm ở thành phố gởi về." Những túp lá xiêu vẹo bên dòng
kinh đã rơi vào mắt tôi từ lúc nãy.
Cho nên, khi tôi hỏi: "Chùa mình có bi nhiêu đây hả Sư cô?" thì Sư cô xuýt xoa:
"So với đa số nhà dân thì chùa mình là "giàu" quá rồi!".
Chính vì vậy, có lẽ một trong những lý do mà tụi trẻ tối ngày cứ chạy tới chùa
là để được chà cái bàn chân lên lớp gạch mát lạnh. Sư cô vừa lau chánh điện vừa
thủ thỉ: "Tụi nhỏ đâu có mang dép. Rồi ịn nguyên bàn chân lên
gạch nè. Nhưng thấy thương, cô hổng có la."
Chùa rộng có hơn 100m2 , vừa hết chánh điện là ra ngay hậu tổ nhỏ xíu, bên trái
có một phòng để Sư cô và bà Năm già ngủ nghỉ. Bên phải là bàn máy may của Sư cô,
và cái tivi, đầu đĩa VCD Sư cô mới mua trả góp để có phương tiện chiếu phim
thuyết pháp cho Phật tử xem. Lúc nào Sư cô cũng nuôi ước mơ hoằng pháp, nên dành
dụm tất cả tiền mà mấy đứa cháu "lì xì" trong năm để mua tivi, và chiếu liền mấy
cái đĩa tôi cho hôm tết. Vậy mà còn tận dụng không gian để mở lớp Phật Pháp
thiếu nhi theo giáo trình của tôi biên soạn.
Lại còn dạy ca hát, và khi tôi đề nghị dạy nữ công thì Sư cô mừng rỡ chịu liền.
Lần này tôi đem vải, kéo, chỉ thêu, Sư cô tha hồ mà hoạt động.
Tôi còn mừng hơn Sư cô, vì như vậy tôi đỡ dạy vất vả, mà phong trào lại được giữ
lâu hơn. Hiếm có một vị đa năng như thế. Người
trẻ còn chưa hăng hái cỡ đó, huống chi Sư cô đã xấp xỉ 50 tuổi.
17g
Đi
tắm. Chao ôi là nước! Nước trong ao màu lờ lờ. Vốc lên rửa mặt mà... sờ sợ. Tắm vội vàng, và "dũng cảm" gội đầu vì phải tẩy lớp bụi đường dày
đặc trên tóc. Thôi kệ, chịu một bữa vậy, cũng như vô
chùa Tâm Thành ở Tam Nông từng tắm nước phèn đó mà.
Chậc, lần nào về quê cũng bị đen thui là tại nắng, tại nước
như vầy. Chưa kịp nhả, lại phải đi tiếp.
Vùng sâu vùng xa nào không chịu cảnh nước phèn, nước mặn?
Phụ nữ thì quan trọng cái "sắc" lắm, nhưng thôi, đã phát tâm hoằng pháp thì ráng
bỏ qua. Cái sắc nào dù đẹp rồi cũng tới ngày hủy hoại.
Vậy nghen, đừng bận tâm.
Nhưng thấy vậy mới khâm phục Sư cô hơn nữa. Từ Đại Tòng
Lâm đang sung sướng, Sư cô phát tâm về vùng sâu hoằng pháp, chịu đựng cỡ này mà
không than một tiếng. Đúng là bậc chân tu.
Thế đó, tôi đã tìm ra biết bao tấm gương đạo hạnh chính trong
những nơi hẻo lánh, đói nghèo. Cuộc sống còn nhiều điều kỳ diệu, đừng vội
nản lòng trước những tiêu cực chung
quanh.
17g30
Đói
quá, vì từ sáng tới giờ chỉ cầm cự bằng một chén cơm duy nhất, bởi lên xe hay nôn nên không dám ăn gì. Mấy dì Phật
tử từ chiều đã xúm xít gói bánh tét đãi tôi, cứ như khách quý.
"Trời ơi, cô xuống tới đây là quý thiệt đó chớ. Chùa xa
quá, đường khó đi quá, nên quanh năm hổng có ai tới thăm cô ơi!" Nghe mà
đứt ruột! Nhìn mấy dì mấy cô ngồi chùm nhum bên đống lá chuối,
gói gói, cột cột, chợt nghĩ cái nếp văn hóa truyền thống này sẽ còn được bao
lâu? Lớp trẻ cỡ tôi bây giờ đã gần như hết biết gói
bánh rồi, cứ đám giỗ hay tết nhứt thì ra chợ mua bánh mứt làm sẵn.
Hôm tết, đi dạo khu chợ hoa Nguyễn Huệ, thấy mấy chỗ gói bánh tét, bánh ít, cũng
mặc áo bà ba, nấu củi, y hệt ở quê.
Nhưng y hệt làm sao được! Cái không khí đó vẫn là không khí biểu diễn, không khí
mua bán, làm sao giống như ở đây với tình làng nghĩa xóm gắn bó, với những tâm
sự, chia sẻ khi ngồi quây quần bên nhau...
Bếp lửa đỏ hồng suốt buổi, và mùi bánh chín đã thơm lừng. Món bánh tét nhưn
chuối, bên ngoài không bọc nếp mà bọc bằng khoai mì bào ra lấy bột,
ăn dẻo nhẹo, lạ lùng. Lại còn món canh cũng bằng bột khoai mì, nấu với
nấm rơm, ăn
thiệt ngộ. Phật tử biết có khách nên đem tới một nắm rau ngổ,
rồi mấy trái cà tím non xèo, và hơn chục trái đậu bắp nhỏ nhỏ.
Thứ nào cũng có vẻ đèo đẹt vì thiếu nước ngọt, nhưng tôi biết chắc chắn là không
có thuốc trừ sâu, thuốc tăng trọng. Sư cô cười: "Bữa nay là được
ăn
ngon đó nghen. Cả năm cô hổng có đi chợ, vì hổng có tiền.
Bà con cho cái gì ăn cái nấy, toàn rau cỏ quanh vườn chấm với nước tương." Tôi
kêu trời: "Vậy rồi mai mốt Sư cô bịnh, tốn tiền uống thuốc nha!"
"Chớ dân quá nghèo, tiền đâu mà cúng hả Kim? Mình phải chia sẻ với họ chớ!"
"Vậy mà để dành tiền mua tivi...",
tôi trách yêu. Sư cô khoát tay: "Cái đó là ước mơ hoằng
pháp Kim à. Nơi xa xôi này không có giảng sư tới, chỉ còn cách nghe pháp như vậy
thôi." Tôi chịu thua: "Con đem thêm cho Sư cô cả trăm cái đĩa nữa kìa, tha hồ Sư
cô vừa làm thư viện cho chùa vừa tặng Phật tử!". Mấy dì
Bảy, dì Út, cô Năm rộn ràng hẳn lên. Và khói bếp cay nồng ấm
cúng quyện vào gió chiều, ôm lấy những gương mặt hiền lành, chất phác.
Căn bếp tạm bợ với những tấm tole cũ mục ghép lại, và vách lá đơn sơ chỉ đủ che
mấy bộ bàn ghế bằng cây tạp do mấy chú trong làng tự đóng, ngay cả cà ràng ông
táo cũng do bà Năm già tự nhào đất sét nắn ra. Vậy mà đông vui tình nghĩa hơn
nhiều bữa ăn ở nhà hàng sang trọng tôi đã từng dự một cách miễn cưỡng.
Ăn xong, có một ly nước dừa ngọt lịm đúng "mác" Bến Tre, cái thứ nước mà ở Sài
Gòn cỡ mức lương như tôi mỗi lần uống coi như "xa xỉ" vì tới 5.000 đồng một
trái. Hóa ra người dân ở đây sống rất "sang" mà họ đâu có hay! Thôi thì, cuộc sống luôn có mặt phải mặt trái của nó, chẳng thứ gì
toàn diện.
20g
Phật
tử vừa tụng kinh xong, ngồi quây quần nơi chánh điện. Các em nhỏ cũng tề tựu về, cũng tụng kinh
đàng hoàng rồi ngồi chung với mấy dì mấy bác.
Sư cô đã thông báo "có khách" nên mọi người hẹn nhau đến sinh
hoạt.
Có cả chú Hải công an ấp và mấy chú đoàn thể địa
phương. Ai nấy vui vẻ và hòa đồng, dù gia đình nào cũng là dân Đồng khởi thứ
thiệt.
Chú Hải kể: "Cô hổng biết đó chớ, hồi sư ông khởi công xây chùa, tụi tôi đem
giấy tờ lên huyện xin phép giùm, rồi hè nhau khiêng xi măng, cát đá, tới tối mịt
còn chưa ăn cơm. Làng xóm mà không có chùa buồn lắm.
Và có Sư cô về thấy ấm cúng, tụi nhỏ vô đây được Sư cô khuyên dạy coi bộ ngoan
hơn, bớt phá phách.
Nói thiệt, chúng tôi chỉ sợ Sư cô cực khổ quá rồi bỏ chùa mà
đi thôi!"
Sư cô cười: "Không bỏ đâu chú ơi! Quý vị thương tui quá mà bỏ đi sao được!"
Mấy dì Phật tử cũng xúm xít nói cười, tình thương tràn lên ánh mắt.
Nhà họ nghèo và xa, nhưng tối nào cũng đi tụng kinh, coi chùa như ngôi nhà thứ
hai, thật cảm động.
Tôi chào hỏi mọi người, rồi ôn bài sơ sơ cho tụi nhỏ, sau đó
mở băng cassette tập hát những bài dân ca Phật Pháp mà tôi biên soạn.
Đúng ngay cái "máu" vọng cổ của bà con Bến Tre! Mấy dì đeo
kính lão lên hát vang trời không thua gì xấp nhỏ. Làm một hơi 7 bài luôn. Tôi thử mời ai "dũng cảm" lên hát
thử, thì eo
ôi, quá nhiều người dũng cảm. Già trẻ lớn bé gì cũng xung phong lên cầm micro.
Quả không hổ danh là con của quê hương Đồng khởi. Quen sinh hoạt tập thể, quen chất chiến đấu, không sợ hãi, và quen
nếp sống lạc quan yêu đời, bao nhiêu tuổi cũng trẻ trung, năng động.
Tiếng cười, tiếng vỗ tay giòn giã.
Đức Phật ngồi trên tòa sen nhìn xuống chắc cũng mỉm cười.
Tôi nói: "Chúng ta phải làm cho mọi người hiểu rằng đạo Phật của chúng ta không
phải bi quan, yếm thế, thụ động, mà là một đạo tích cực, sáng tạo, luôn sống có
ích cho con người, xã hội. Sống với Đạo cũng có nghĩa là làm một cuộc cách mạng
trong chính bản thân mình, chống lại cái xấu, cái tiêu cực, để tiến tới cái tốt
đẹp, tươi sáng hơn!" Những người con Đồng khởi vỗ tay
nhiệt liệt.
Gần 10 giờ đêm, mà chẳng ai muốn chia tay. Mấy dì nói: "Trời ơi bữa nay vui quá!" Bình trà thứ mười
mấy đã cạn, bánh kẹo cũng ăn xong, và tôi tặng mỗi vị một cái khăn làm quà kỷ
niệm, vì bất ngờ quá đâu có chuẩn bị. Mấy dì xếp cái khăn trìu mến: "Nhìn cái
khăn là tui nhớ cô Kim nghen!" Than ôi, có một chút quà mọn mà mọi người quý mến
như vậy, so với đô thành xa hoa muốn cho người ta cái gì cũng cân nhắc, e dè.
Tôi thầm ước, giá mình làm có tiền mình sẽ luôn luôn tìm về những nơi như thế
này để sống với những trái tim thương yêu tha thiết! Chính mấy
dì, mấy em đã tặng tôi một món quà vô giá.
23g
Sư
cô và tôi cùng chui vào cái mùng bé tí, bề ngang chỉ một mét, tấn bên này thì
hụt bên kia, tấn trên đầu thì hụt dưới chân.
Thây kệ, chứ chẳng còn cái mùng nào nữa. May mà tôi đem xuống cúng dường hai cái mền.
Trải chiếu trên nền gạch chật hẹp giữa hai cái bàn, còn phòng ngủ nhỏ thì nhường
cho bà Năm già hơn 70 tuổi.
Hai cô cháu cứ thủ thỉ tâm tình, không ngủ được.
Tôi nói: "Lạ thiệt, con đã đi rất nhiều nơi, tổ chức nhiều lớp Phật pháp, nhưng
chưa bao giờ gặp nơi nào mà chính quyền gắn bó với đạo pháp như vậy.
Có nơi gây khó dễ, có nơi thì thoải mái hơn nhưng cũng đứng bên ngoài mà giúp,
còn ở đây mọi người cùng xắn tay áo vô làm." Sư cô nói: "Bởi vậy cô mới
ráng bám trụ. Mà bây giờ quen rồi, đi đâu cũng nhớ, quay về."
Thôi ngủ đi nghen, mai còn thức sớm dạy học nữa đó. Sư cô còn thức công phu khuya nữa.
Tiếng dế kêu nỉ non ngoài hè, xa xa tiếng tàu đêm lướt qua bến sông để lại những
đợt sóng nhẹ nhàng vỗ vào trái tim
như ru hời êm ái...
5g sáng chúa nhật
Tôi
ngủ say một giấc không mộng mị. Trong đầu có nghe văng vẳng tiếng chuông mõ dịu dàng, nhưng rồi lại
thiếp đi.
Toàn thân vẫn chưa hết ê ẩm sau một ngày đường. Khi
choàng tỉnh dậy, trời se lạnh, tôi co rúm người trong chăn, cuộn mình thưởng
thức cái không khí trong lành của miền quê chen một
chút khói bếp của bà Năm đang nấu nước pha trà. Khói lá dừa nồng nồng, tôi hé
mắt nhìn xuống những đốm đỏ bập bùng như nhảy múa tung tăng trong gian bếp mờ tối. Nhớ ngày xưa còn
bé, ở quê ngoại cũng nghèo khổ như vầy, cũng đốt lá nấu cơm khói nồng cả
mái tranh xiêu vẹo. Lá rụng khắp vườn, tôi và thằng Dũng gom lại từng rổ thật
to, chụm tới đâu nghe tiếng lửa reo giòn tan tới đó. Còn lá dừa thì cuộn lại thành ngọn đuốc, mỗi đêm soi đường cho tôi
đi dạy bình dân học vụ. Những năm mới giải phóng, bọn trẻ học sinh chúng
tôi phải tham gia tất cả phong trào của nhà nước đề ra, nào xóa mù chữ, nào đắp
đê, đào kinh thủy lợi... Hừng hực khí thế. Làm cực mà vui. Nhờ vậy gắn bó với cộng
đồng, bà con, làng xã. Tôi đi dạy vỡ lòng cho bà Tư, con Út... kiên nhẫn
cầm tay họ viết từng chữ i tờ lên trang giấy trắng.
Tôi đem ngọn đuốc văn hóa soi giùm cho họ, thì đêm về có đuốc lá dừa soi sáng
bước chân tôi. Qua cầu khỉ, cầu gòn trơn trợt, có cả sợ ma, sợ
rắn rít trong lùm bụi chạy ra. Nhưng không ngày nào chịu bỏ dạy, vì cứ
nhớ lớp, nhớ "học trò" già nhứt định đánh vần chữ "ếch" (S) là con..."cóc"!
Đi suốt những mùa hè... cho tới một mùa hè 16 tuổi thì có một ngọn đuốc lá dừa
khác cũng theo về chung lối. Thế là đỡ sợ ma, nhưng lại sợ một... thứ khác dịu dàng hơn.
Rồi chút ấm áp thơ ngây đó cũng trôi qua, tôi hồn nhiên lớn lên chút nữa, ra đi
về một vùng quê khác, bỏ quên những ngọn đuốc lá dừa của tuổi thơ và lớp học
bình dân năm nào...
Chợt đêm nay gặp lại, thấy lá dừa vẫn xõa tóc che suốt đời mình, vẫn cháy sáng
soi đường cho mình cầm tay những học trò quê cũ. Tôi vẫn đi
xóa mù nhưng là xóa mù Phật Pháp, trao tặng những bài học vỡ lòng cho những xóm
làng xa xôi heo hút. Vẫn kiên nhẫn cầm
tay họ viết từng chữ i tờ của Tam Bảo, Ngũ giới, Vô
thường, Nhân quả... Cái nghiệp "cô giáo" ngày nào vẫn tiếp
tục, nhưng niềm vui thì lớn thêm nhiều lắm.
7g
Các
em đến đông đủ. Tôi xếp
các em ngồi xuống nền gạch trên chánh điện và lấy những chiếc kệ tụng kinh thay
cho bàn học. Giấy thi đã in sẵn đề, tôi soạn rất tiện
và đẹp, photo ra hàng loạt, "chính quy" không thua trường lớp bên ngoài.
Tôi gác thi nghiêm túc, không em nào dám gian lận hoặc coppy. Nói
chung, lớp học này khá tốt, có nề nếp, tôi rất hài lòng. Đặc biệt, nhiều
em còn mặc những bộ đồ vạt hò mà Sư cô may tặng, trông xinh xắn đáng yêu làm sao.
Sư cô đi Sài Gòn xin vải về may, thật khéo tay.
Tôi vừa chấm điểm bài kiểm tra, vừa mở băng cho các em học hát. Tập bài hát tôi cũng đánh máy, photo sẵn, trang trí đẹp mắt.
Không khí vui và sinh động.
Các em được ăn trưa trong khi chờ tôi soạn phần thưởng.
Tôi đã trang bị 60 cái khay nhựa có nhiều ngăn.
Các em thích ăn trong cái khay xinh xinh đó, nên tuần
nào cũng đòi tới chùa học giáo lý. Mấy dì Phật tử cũng lăng
xăng nấu giúp từ sáng, tạo nên sự gắn bó lạ lùng. Từ chuyện ăn
thôi, nhưng mỗi người đều có thể gởi gắm tình cảm của mình vào đấy.
Cho nên, mỗi dịp đám tiệc không chỉ là ăn, mà còn là cơ hội gắn kết cộng đồng
với nhau. Chùa nghèo, chỉ có món bánh mì nguội đem hấp, cuốn với rau sống,
chấm nước tương, nhưng cái sự "ngon" ở đây bao gồm cả trạng thái tinh thần nữa.
Lúc trao phần thưởng thì có mấy anh chủ tịch xã, bí thư
ấp và mặt trận tổ quốc xuống thăm theo lời mời của Sư cô. Cán bộ rất trẻ và thân
thiện. Mọi người cùng ăn bánh mì hấp như tụi nhỏ, và
tiễn tôi ra về. Chuyến xe chót tại thị trấn Mỏ Cày sẽ khởi hành lúc 12g.
Mấy dì Phật tử xếp một giỏ đầy nào bánh tét, dừa, bánh tráng, bắt tôi phải mang
đi. Tôi từ chối không được, dù biết mình xách lên tới
thành phố chắc cái lưng cụp lại như hôm nọ. Đến vùng
quê nào cũng vậy, các dì cũng trìu mến gởi những món quà quê hương, cây nhà lá
vườn, mình không nhận sợ các dì buồn. Thôi thì khệ nệ khiêng nè...
13g30
Xe
chờ đủ khách mới chịu lăn
bánh. Và lại nắng, lại hai chuyến phà dằng dặc, lại những cơn gió rát da, lại
những lớp bụi mù trên đường thiên lý...
Nhưng rồi tôi sẽ trở về, rồi tôi sẽ dâng tặng những gì mà trái tim tôi chân
thành ấp ủ. Bàn tay tôi nhỏ bé, nhưng cũng xin góp một chút cho đời, để rồi nhận
lại từ cuộc đời những niềm tin và hy vọng. Xa rồi Bến Tre. Tạm biệt những hàng dừa xõa tóc bến sông xanh...
Tạm biệt những mái lá nghèo nhưng nhân hậu, yêu thương...
Bến Tre