Không biết
có tự bao giờ, từ một vị Vua trong
các loại đậu đã trở thành sứ giả dinh dưỡng của những người không ăn thịt, ăn cá. Tuy
có vị nhạt nhưng lại dễ dàng kết hợp với các gia vị
và các
nguyên
liệu để tạo ra
những món bình dị và
dân dã
nhất.
Đậu nành
là một trong những loại cây trồng cổ nhất trong lịch sử của nhân loại. Theo số tài liệu
của những sản xuất đậu nành quốc tế. Cây đậu nành được người nông dân Trung Hoa
thuần
hóa, khoảng năm 1100 trước Công nguyên.
Sau
đó được
trồng ở nhiều
nước khác nhau trên thế
giới.
Phân loại
khoa học của đậu nành được biết như:
Giới : Plantae
| Phụ giới: Tracheobionta | Nghành: Magnoliophyta | Hạng: Magnoliopsida | Phụ hạng: Rosidae | Bộ: Fabales | Họ: Fabaceae | Loài : Glycine | Tên hai phần: Glycine L. max.
Phân loại
theo phát sinh học : Bộ: Fabales | Họ: Fabaceae.
Thành phần
hoá học: Hạt đậu nành chứa 8% nước, 5% chất vô cơ, 15- 25% glucose, 15-20%
chất béo, 35- 45% chất
đạm,
các acid amin cơ bản
isoleucin, leucin, lysin, metionin, phenylalanin, tryptophan, valin, các muối
khoáng Ca, Fe, Mg, P, K, Na, S, các
vitamin A, B1, B2, D, E, F, các
enzyme, sáp, nhựa,
cellulose. Trong đậu
nành có
chứa
chất isoflavones, nó được dùng cho việc
trị và ngừa một số bệnh.
Mặc dù
cây đậu nành có lịch
sử lâu đời, nhưng những bản viết của lịch sử chưa có đủ dữ kiện để ghi nhận chính xác, về nguồn
gốc ra đời
của miếng đậu hũ được làm từ những hạt đậu này. Tuy nhiên
truyền thuyết vẫn là những nguồn tin mang tính khái niệm
để giúp cho người ta biết từ đâu mà có.
Đậu nành được xem là một loại đậu vừa có thể dùng
làm thức ăn và vừa
dùng làm thuốc. Tên của nó trong
Đông y theo tiếng Hán Việt: 黄大豆, Hoàng
đại đậu.
Đậu nành
tiếng Hán Việt: 大豆. Theo quy
trình biến chế cổ truyền: Hột được sàng rữa sạch, ngâm nước muối, đậu nở, đãi vỏ, rồi đem xay nhuyễn.
Bột xay xong, lược lấy phần sữa lỏng, đun sôi. Khi đậu sôi nhiều dạo, cho thêm nước
muối vào và khuấy đều. Rồi vớt cái cho ra
khuôn
ép nước, để yên. Nó sẽ đặc
lại từng mảng gọi là bánh đậu.
Bánh đậu
nành, không mùi vị đặc
biệt, được
người Nam gọi
là đậu hũ hay tàu hũ,
ngườiTrung gọi
là Đậu khuôn và người Bắc kêu là Đậu phụ.
Đậu hũ
được viết
theo Hán tự là 豆 腐, 豆nghĩa là đậu,
腐 nghĩa là thối
rửa, mục nát. 豆 hay豆,
theo tự điễn Hán Việt Thiều Chửu gọi là bộ Đậu và có những
nghĩa như sau: Bát đậu,
cái bát
tiện
bằng gỗ để đựng phẩm vật cúng hoặc các thức dưa, giấm v.v. Tự thiên
dụng ngõa đậu 祀天用瓦豆 tế
trời dùng bát bằng đất nung. | Đỗ,
đậu, một loài thực vật để ăn. Như đậu tương, đậu xanh, v.v.
Đậu hũ
là nguồn cung cấp chất đạm cho những người ăn chay không
ăn thịt cá.Ngày nay
việc
sử dụng đậu hũ đã được đậu hũ hóa trong văn
hóa ẩm thực bình dân. Nó, dễ
nấu, dễ ăn, dễ tiêu hóa, nhiều
dinh dưỡng, ít calo, mang
nhiều
lợi ích cho sức khỏe
và trở thành các món
ăn ngon bổ dưỡng, không béo,
thích
hợp cho nhiều lứa tuổi, người giàu, người nghèo, người tu theo Phật cũng như người theo các tôn giáo
khác.
Đậu hũ
là loại thực phẩm của thảo mộc có thể thay thế cho những
thực phẩm động vật. Tuy không phải
là ăn món quá mới lạ
nhưng nếu thêm nó vào
trong bữa ăn thường nhật, cũng là phần góp công nho nhỏ
cho quyền sống tự do của các loài
động vật.
Một người
làm được, hai người làm được và một số
đông người làm được ngày hôm nay
thì ngày mai sẽ là những ngày tươi đẹp cho thế hệ sau. Khi trên trời, dưới đất, trong nước sẽ có thêm những đàn chim tung cánh
bay, những đàn thú đang
nô đùa, các loài thủy tộc đang tung tăng bơi lội…
Kính bút
TS Huệ
Dân