Lời người dịch.
Phần trích dịch dưới đây nằm trong đoạn đầu của bài diễn văn nhận giải Nobel văn
chương của Yasunari Kawabata, đọc tại Hàn Lâm viện Thuỵ Điển vào tháng 12 năm
1968, với nhan đề Japan, the Beautiful and Myself (1). Tanka (đoản ca: 短 歌),
là thể loại thơ độc đáo của Nhật Bản, gồm 31 âm tiết. Kawabata muốn giới thiệu
những bài thơ này để nêu bật tinh thần Nhật Bản về thơ ca trong bài diễn văn của
mình. Người dịch những bài thơ này đã mạo muội phóng tác thành những câu thơ
mang hơi thở Việt Nam. Rõ ràng đó là việc làm dễ mắc phải sai lầm, một phần, vì
qua ngôn ngữ thơ ca, dịch phẩm phải giống như việc tái tạo một sản phẩm mà điều
may mắn hi vọng đạt được là tinh thần cốt tủy của sản phẩm cũ không sai lệch là
bao, phần khác, người dịch đã chuyển từ bản dịch Anh ngữ chứ không phải từ
nguyên ngữ Nhật Bản. Đó là lí do người dịch viết những lời này, với niềm mong
mỏi bạn đọc bỏ qua cho những sai lầm lệch lạc, và đón nhận bài viết này nhẹ
nhàng như cơn gió nhẹ thoảng qua, không ảnh hưởng gì đến ai cả.
Mỗi lần có ai đó nhờ tôi viết vài câu thư pháp, tôi thường viết hai bài thơ sau
đây, bài thứ nhất của Tu sỹ Dogen (1200-1253), mà ông ta gọi là Bản lai diện
mục (Innate Spirit), và bài thứ hai, của Tu sỹ Myoe (1173-1232).”
“In the spring, cherry blossoms, in the summer the cuckoo.
In autumn the moon, and in winter the snow, clear, cold.” (2)
Mùa xuân đỏ thắm anh đào
Tiếng cu bàng bạc điệu chào, Hạ ơi !
Trăng Thu trong sáng gọi mời
Tuyết đông lành lạnh tinh khôi bốn bề
“The winter moon comes from the clouds to keep me company.
The wind is piercing, the snow is cold.” (3)
Trăng ngời ngọc sau làn mây hiển hiện
Để cùng tôi qua mộng thực đôi bờ
Ngọn gió buốt như hoà trong thớ thịt
Trắng mênh mang màu tuyết lạnh hoang sơ
Trước bài thứ hai, Myoe ghi thêm những dòng sau, như một lời giải thích cho ý
nghĩa chủ đạo của bài: “Vào đêm 12 tháng 12 năm 1224, mặt trăng đang ẩn khuất
sau làn mây. Tôi bước vào điện Kakyu để ngồi thiền. Lúc nửa đêm, tôi ngừng thiền
định, bước ra ngoài sảnh điện để đi xuống tầng dưới, tôi bắt gặp ánh trăng hiện
ra sau màn mây và lan toả bàng bạc trên tuyết trắng. Và ánh trăng kia đối với
tôi như một bạn đồng hành, đến nỗi, tiếng chó sói tru lên dưới thung lũng cũng
chẳng hề làm tôi khiếp sợ. Rồi lúc sau, tôi rời hạ điện bước ra ngoài, ánh trăng
lại khuất vào trong mây. Khi tiếng chuông ngân báo hiệu giờ cầu kinh lúc tàn
đêm, tôi lại đi lên sảnh điện, ánh trăng đã dõi theo tôi trên con đường tôi
bước. Tôi lại ngồi thiền, mặt trăng như đuổi theo mây để sau cùng chìm khuất
trong ánh mặt trời đang hồng lên cho ngày mới, mặc dầu vậy, dường như với tôi,
ánh trăng kia vẫn còn theo tôi trong tâm tưởng như một bạn đồng hành bí mật”.
Sau bài thơ đã dẫn ở trên, là bài thơ sau, mà có thể đoạn cuối những lời dẫn của
Myoe đã cho thấy rằng ẩn ngữ một vầng trăng đã khuất dần sau núi kia vẫn còn
ngân vang trong lòng tác giả:
“I shall go behind the mountain. Go there too, O moon.
Night after night we shall keep each other company.” (4)
Ta sẽ về bên kia núi, Trăng ơi
Em cũng về theo, mộng song hành
Đêm lại rồi đêm ta sánh bước,
Em là ta hay ta lại là em?
Một lần khác, có thể là sau những thời khắc thiền định, hoặc khi bước đi lúc
trời rạng sáng trên đường về chánh điện, Myoe đã viết thế này: “Vừa mở đôi
mắt ra sau thời gian thiền định, tôi đã bắt gặp vầng trăng lúc trời tảng sáng,
ánh trăng dìu dịu qua cửa sổ. Tôi cảm thấy ánh sáng dường như đang ngập tràn đến
cả những góc phần tăm tối nhất của tâm hồn mình, và dường như ánh sáng đó đến từ
ánh trăng muôn thuở”. Theo đó, Myoe đã viết bài thơ:
“My heart shines, a pure expanse of light;
And no doubt the moon will think the light its own.” (5)
Sáng cả lòng ta dòng tinh khiết
Hay chính là trăng nhập cõi hồn?
Myoe thường được mệnh danh là Thi sĩ của ánh trăng, bởi những dòng thơ
trăng thanh thoát, bởi những dòng thơ như sự thảng thốt diệu kì, như tiếng kêu
ngây thơ tự nhiên bật ra tự tâm hồn, như sự hứng khởi tuôn trào không mục đích:
“Bright, bright, and bright, bright, bright, and bright, bright.
Bright and bright, bright, and bright, bright moon.” (6)
Trong ba bài thơ về ánh trăng, từ nửa khuya đến lúc trời rạng sáng, Myoe đã tuân
thủ khuynh hướng thi pháp mà Saigyo đã sử dụng. Saigyo cũng là một thiền sư –
thi sỹ, người đã tại thế vào khoảng 1118 đến 1190, ông đã nói: "Dù tôi có làm
thơ chăng nữa, tôi vẫn không nghĩ về chúng như là những bài thơ tôi đã soạn”
(7). Trong ba mươi mốt âm tiết, ông đã tạo nên một bài thơ, trung thực, trực chỉ
vào thực tại sinh động, dường như thể ông với trăng là một, chứ không đơn thuần
là “đồng hành với trăng”. Nhìn trăng, ông trở nên trăng, và trăng cũng chính là
ông khi nó là đối tượng được ngắm nhìn. Ông chìm vào thiên nhiên, và ông trở
thành một cùng nhiên giới. Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart)
của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh
trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng dù ngày lên hửng đỏ một góc trời.
Như ta đã thấy trong lời dẫn của Myoe trước bài thơ nói trên, ở đó, ánh trăng
mùa đông đã trở thành bạn đồng hành, nó chính là tâm của vị thiền sư, một ánh
trăng đã từ sau làn mây toả sáng rồi chìm vào bầu trời tôn giáo và triết học,
vĩnh viễn, ánh trăng và thiền sư đã lan toả vào nhau trong một hoà điệu tuyệt
vời, mà bài thơ bất quá chỉ như một bật thốt tình cờ để diễn tả nên điều rất khó
diễn bày. Đó cũng là lí do mà tôi nghĩ đến bài này đầu tiên khi có ai nhờ viết
cho một bức thư pháp, với tôi, cảm xúc của bài thơ thật nhẹ nhàng phiêu hốt, một
niềm đam mê thật bay bổng khinh an. Ánh trăng kia giữa bầu trời đông tuyết, nấp
sau mây rồi hé lộ dần, rồi lại núp sau mây và lại hiển bày, toả sáng trên mỗi
bước chân ta, khiến ta không còn sợ sói dữ. Phải chăng, hỡi trăng ơi, gió chìm
vào trong em, gió lạnh mơn man em và tuyết trắng không làm em buốt giá? Tôi chọn
bài thơ này, quả thực, tôi đã chọn một bài thơ ấm nồng, sâu lắng, bài thơ của
niềm đam mê thanh thoát, trong tĩnh lặng khôn dò, trong thảng thốt suy tư ăm ắp
cả một Tinh thần Nhật Bản. Tiến sĩ Yashiro Yukio, một nhà nghiên cứu nổi tiếng
về nhà danh hoạ Botticelli (8), một học giả uyên thâm về nghệ thuật từ cổ chí
kim và từ Đông sang Tây, đã đúc kết Tinh thần nghệ thuật Nhật Bản đặc trưng qua
chỉ một câu thơ: “Ta nghĩ đến bạn bè ta mỗi khi nhìn hoa, ngắm tuyết, ngó trăng
thanh”.
Mỗi khi nhìn vẻ đẹp tuyệt vời của tuyết, mỗi lần thưởng ngoạn ánh trăng tròn vời
vợi, hay say đắm trước vẻ xinh tươi của những khóm anh đào, mỗi khi để lòng chìm
trong các bức hoạ hay bị đánh thức bởi vẻ mỹ miều của bốn mùa thay sắc, ta
thường nghĩ đến những người gần ta nhất, những kẻ thương yêu, và trong ta khao
khát niềm ước mong chia sẻ cảm giác hoan lạc này. Chính sự kích thích của mỹ cảm
đã đánh thức các cảm xúc trong ta, đánh thức niềm khát khao sự đồng hành, khát
khao những mối chân tình huynh đệ, và khi đó, từ “bằng hữu” (comrade) trở thành
đặc trưng đầy ý nghĩa của hai tiếng “con người” (human being). Tuyết, trăng,
những khóm hoa, những từ ngữ diễn tả bốn mùa, trong truyền thống Nhật Bản, đó là
những từ ngữ hoà quyện vào nhau để nêu bật lên vẻ đẹp muôn thuở của núi, sông,
cây cỏ, để diễn đạt thiên nhiên sâu lắng và muôn hồng nghìn tía, cũng như diễn
đạt cảm xúc của con người khi chiêm nghiệm.
Cái tinh thần đó, cái tinh thần khát khao tình huynh đệ khi đi trong tuyết, khi
đứng dưới trăng, khi ngắm nhìn hoa ngàn cỏ nội, cũng chính là tinh thần căn bản
trong nghi thức uống trà. Trong cảnh quan tươi đẹp thích hợp nào đó, bằng hữu
gặp nhau, ngồi bên tách trà, hoà điệu một niềm giao cảm trước đất trời vạn đại,
và động thái thưởng trà kia được nâng lên thành nghi thức, mà như người ta nói,
ấy là Trà đạo. Tiện đây, tôi muốn đề cập đến tiểu thuyết Ngàn cánh hạc (Thousand
Cranes) của mình, một cuốn tiểu thuyết thường được bạn đọc hiểu sai là tôi muốn
ngợi ca vẻ đẹp hình thức và tinh thần của nghi thức uống trà đó. Nhưng ngược
lại, tôi muốn diễn đạt mối hoài nghi cũng như cảnh báo mọi người về tính thông
tục hợm người mà các nghi thức uống trà hiện nay đang sa ngã.
"In the spring, cherry blossoms, in the summer the cuckoo.
In autumn the full moon, in winter the snow, clear, cold."
Mùa xuân đỏ thắm anh đào
Tiếng cu bàng bạc điệu chào, Hạ ơi !
Trăng Thu trong sáng gọi mời
Tuyết đông lành lạnh tinh khôi bốn bề
Một ai đó sẽ nghĩ rằng trong bài thơ đó của Dogen, đơn giản chỉ là sự miêu tả
thiên nhiên một cách thông thường, xoàng xỉnh, một sự kể lể tầm thường bốn mùa
thay nhau nối tiếp. Ai đó cũng có thể nghĩ rằng thơ gì như vậy mà cũng là thơ,
chẳng có thơ có mộng gì với những từ bình thường ghép nhau như thế. Tuy nhiên,
ta hãy nghe một bài tương tự viết lúc lâm chung của Thiền sư Ryokan (1758-1831):
“What shall be my legacy?
The blossoms of spring,
The cuckoo in the hills, the leaves of autumn.” (9)
Em thừa kế giùm tôi ngàn hoa thắm
Tiếng chim kêu đồi mộng thuở ban sơ
Tôi để lại cho trần gian muôn thuở
Lá vàng thu, những khoảnh khắc không ngờ!
Ở bài thơ này, cũng tương tự bài của Dogen, những ảnh hình và từ ngữ bình thường
nhất đã hoà quyện trong nhau một cách trôi chảy, mà đặc biệt, nó đã truyền cho
ta tinh thần cốt tuỷ của Nhật Bản. Bài thơ vừa trích dẫn trên là bài thơ cuối
cùng trong cuộc đời của thiền sư – thi sỹ Ryokan.
“A long, misty day in spring:
I saw it to a close, playing ball with the children.
The breeze is fresh, the moon is clear.
Together let us dance the night away, in what is left of old age.
It is not that I wish to have none of the world,
It is that I am better at the pleasure enjoyed alone.” (10)
Tôi đang đùa với trẻ con
Trời sương trùm phủ lối mòn cỏ xuân
Trăng thanh, gió nhẹ thật gần
Một trời thân thiết, vang ngân giọng đàn
Nhảy đi em, điệu muôn vàn
Tiếng lòng kim cổ, nhạc vàng xưa sau
Rồi nghe đất chuyển muôn màu
Này hương vũ trụ bên cầu cô đơn
Vòng tay ôm trọn xuyên sơn
Một mình chiêm bái nguồn cơn Vĩnh hằng!
Chú thích:
1. Literature 1968-1980, Editor-in-Charge Tore Frängsmyr, Editor Sture
Allén, World Scientific Publishing Co., Singapore, 1993.
2. Vào mùa xuân, những khóm anh đào, tiếng cu gù mùa hạ.
Mùa thu, ánh trăng trong, và mùa đông, tuyết lạnh.”
3. “Trăng mùa đông đến từ sau những đám mây để đồng hành cùng tôi.
Gió thổi buốt, và tuyết lạnh.”
4. “Tôi sẽ về sau núi. Em cũng thế, trăng ơi.
Rồi từng đêm, ta sẽ giữ bước song hành”.
5. “Tâm hồn tôi tỏa sáng, thứ ánh sáng lan rộng thuần khiết;
Và không còn hồ nghi gì nữa, trăng cũng nghĩ rằng đó chính là ánh sáng của chính
mình.”
6. “Sáng, sáng, ôi sáng, sáng, sáng, và sáng, sáng.
Sáng, cứ sáng hoài, sáng, sáng và sáng mãi, ánh trăng!”
7. “Though I compose poetry, I do not think of it as composed poetry.”
8. Botticelli (1445 – 1507), hoạ sĩ nổi tiếng người Ý.
9. “Di sản của tôi ư? Những khóm hoa mùa xuân,
Chim gù trên đồi vắng, những chiếc lá thu bay”
10. “Một ngày dài mùa xuân đầy sương:
Tôi thấy bầu trời thật gần gũi khi đang chơi cầu cùng con trẻ.
Cơn gió nhẹ trong lành, ánh trăng sáng tỏ.
Ta hãy cùng nhau khiêu vũ suốt đêm thâu, trong điệu múa lời ca từ xa xưa đọng
lại.
Chẳng phải tôi ao ước cô độc giữa thế giới này, mà chính bởi khi chỉ còn lại một
mình, tôi vui thú biết bao trong niềm cô đơn bất tuyệt.”
Đà Nẵng, Tháng 11, 2011
Nguyễn Văn Nho
Tập san Pháp luân
82