Thích nữ Tịnh Quang
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.”
(Thôi Hộ)
Thoáng
chốc mà đã ba mươi sáu năm, như ba sáu ngày nhẹ nhàng trôi trên dòng thời gian
vô hình vun vút.
Cũng một buổi chiều xuân với bầu trời trong vắt, ánh mặt trời rãi màu vàng lốm
đốm trong vườn đào đầy thơ mộng này, và cũng dưới cội đào già này, Đông và Xuân
đã gặp nhau…Trái tim chàng từ đây đã trỗi nhịp yêu thương, thổn thức, mong chờ,
và hồi hộp…tâm hồn của chàng đã là nửa hồn của nàng Xuân ngày ấy.
Và giờ đây…“thời gian thiệt phũ phàng…!” chàng lẩm bẩm như kẻ vừa thức giấc sau
một cơn mộng đẹp. Chàng ôm đầu tựa vào gốc hoa đào và nở một nụ cười nhạt
nhẽo man dại, nhìn chân trời xanh xa xa, ký ức của chàng lui dần về quá khứ…
Đông nhớ rằng ngày ấy họ còn trẻ lắm, chàng và nàng chỉ mới hai
mươi tư, tuổi của niềm đam mê và tràn đầy hứa hẹn…Chiều mồng hai tết Đông đi du
xuân và gặp Xuân tại vườn đào kế bên nhà nàng…Ánh nắng chiều biên biếc đã tô đẹp
thêm nhan sắc của tuổi mộng mơ…họ nhìn nhau, lưu luyến nhau, và rồi ngàn lời thề
non hẹn biển để xây đắp tổ uyên ương khi chàng đã hoàn tất công danh sự
nghiệp
của mình.
Nhưng nghịch cảnh đã đẩy
đưa, họ tạm gác lại lời thề ấy. Đông và
Xuân mỗi người một ngả, chàng ra đi còn nàng phải ở lại quê nhà.
Đông nhớ mồn một hôm nao Xuân tiễn chàng lên máy bay, họ quàng
vai nhau khóc sướt mướt, chàng biết rằng Xuân yêu chàng lắm, nàng rất muốn khăn
gói theo chàng nhưng ngặt một nỗi cha nàng mất sớm, mẹ thì tật bệnh, nàng còn
phải gánh buôn để nuôi mẹ và hai đứa em nhỏ dại nên không thể theo chàng; còn
chàng chỉ có hai cha con và phải vâng mệnh cha để lên chuyến bay cuối cùng đến
Mỹ vào tháng tư năm một chín bảy lăm...
Ba năm đầu định cư tại Mỹ
chàng sống như cái xác không hồn, đêm mộng ngày mơ về quá khứ. Cha chàng bảo: “Con Xuân đã hớp hồn mày rồi!” Đúng vậy, Đông làm
gì cũng thất bại không đâu ra đâu, bởi hồn chàng chỉ còn một nửa, và một nửa là
ở bên kia
đại dương xa tít mù khơi.
Đông rất mừng khi đi ra đường gặp người Việt Nam; lúc chàng đang
lái xe mà gặp một người châu Á đi bộ bên lề đường là
chàng quay xe lại, tấp vào lề và hỏi: “Are you Vietnamese?”
Nếu là người Việt Nam chàng hỏi thăm đủ thứ chuyện, đặc biệt là chàng muốn biết
khi nào Việt Nam mở cửa cho Việt kiều về thăm quê cũ.
Mùa xuân năm thứ nhất… thứ hai… thứ ba…trôi đi, rồi đến xuân thứ
tư…xuân thứ năm… từng đàn én lượn xôn xao khi chiều đến, nhưng trong lòng chàng
vẫn trĩu nặng một nỗi buồn u uẩn khi bên kia bờ vẫn bặt vô âm tín, chàng không
còn hy vọng trở về Việt Nam, chàng không còn hy vọng xây đắp lời thề; chàng nghĩ
rằng cha mình cho rằng mình ‘hoang tưởng’ là đúng… Thế rồi Đông tự vực dậy cuộc
đời mình, lo làm ăn và lập gia thất để không làm buồn khổ cha của chàng nữa.Tuy
nhiên trong tâm chàng luôn ao ước cho Xuân vạn sự an lành và hạnh phúc, và lời
thề kia
chàng xin hẹn lại kiếp lai sinh tới.
Chuyện quá khứ tưởng chừng nguôi ngoai như thuyền đã ra khơi,
thời gian đã sang trang mới; nhưng đầu mùa xuân năm thứ hai mươi mốt Đông nhận
được lá thư của Xuân từ một người bạn học cũ của Đông vừa sang nhập
cư. Đọc thư Xuân, biết nàng vẫn còn mạnh khỏe, nàng
không có gì thay đổi, vẫn còn chiết bóng lẻ loi, biết nửa hồn của Xuân vẫn còn
thuộc về chàng…Đông đau đớn lắm…
Như vết thương đã lành theo thời gian nay lại tái phát, chàng đã
tiếp tục tơ tưởng về quá khứ…về một chiều xuân bên cội hồng đào, về những tháng
ngày mặn nồng hò hẹn, về những tình thư đang còn dang dở, về những ngôn từ chan
chứa ngàn lời yêu thương…chàng bị ám ảnh với vẻ mặt ngọc mày ngà, với
“dáng buồn như cúc, điệu gầy như mai” của Xuân…ký ức chàng trỗi dậy, chàng phải
tìm đến hộp đêm và men rượu để giải sầu, và chàng không còn tha thiết đến vợ con
nữa…Cuối cùng chàng đã từ bỏ tất cả và sống với chiếc bóng quá khứ “ma quái” của
mình.
Và trong căn hộ đơn chiếc Đông đã gặp lại ngày xuân quá khứ của
chàng. Hằng năm cứ mỗi mùa xuân là chàng nhận được chiếc áo ấm chính tự
tay Xuân đan cho chàng. Chiếc áo không đẹp như những
chiếc áo ấm tân thời, nhưng chàng vẫn thích chờ đợi mỗi mùa xuân đến để có thêm
chiếc áo mới. Chàng hồi hộp khi nhận món quà đúng vào
ngày cuối đông, sinh nhật của chàng. Chàng nhẹ nhàng cẩn thận mở nó,
không dám nặng tay để hư bao bì bên ngoài, chàng quí trọng từng kỷ vật “thiêng
liêng” của tình yêu mà Xuân gởi tặng cho chàng….Chàng đưa tay nhẹ nhàng vuốt ve
chiếc áo nơi có thêu hai tên Đông Xuân với màu tím nhạt lấp ló sau hai trái tim
đỏ gắn liền nhau, chàng ôm chiếc áo vào lòng rồi ngửi mùi áo mới, chàng thoảng
nghe rằng hương xuân vẫn mãi còn đâu đây như chưa từng biến động. Mỗi năm chàng mặt một chiếc áo mới, mỗi năm là một sắc màu tươi trẻ.
Những chiếc áo len cũ chàng cho vào tủ kiếng khóa chặt cẩn thận như sợ rằng ai
đó vô tình đụng vào báu vật của chàng.
Mùa xuân năm nay Đông có
thêm chiếc áo len thứ mười lăm, chàng không muốn như trẻ thơ cứ mãi hồi hộp chờ
đợi những món quà của người thương khi mùa xuân đến nữa. Chàng
đã về hưu, chàng muốn tận hưởng những giây phút hạnh phúc thực sự của tuổi xế
chiều, chàng muốn hai mảnh hồn đơn ghép lại thành ánh trăng vàng giữa bầu trời
tâm mông lung này…Chàng không thể chịu đựng được nỗi cô đơn cứ dai dẳng đeo bám
chàng, chàng phải sống với sự thực, chàng phải đem Xuân trở về với chàng để đêm
sớm có nhau cho đời thôi quạnh quẽ.
Đông say sưa nhìn vào tấm hình mà Xuân mới gởi cho chàng, chàng
ngớ ngẩn và đê mê trước nhan sắc vượt thời gian của Xuân, nàng như một cô tiên
“chim sa cá lặn”, mắt biếc mày xanh và đôi môi chín mọng kia
vẫn còn quyến rũ bao kẻ si tình như chàng. Chàng không muốn mình là kẻ nhút nhát
yếu đuối nữa, chàng phải tự quyết định tình yêu của mình, chàng phải có tinh
thần “nam nhi chi chí”…
Chàng bấm số điện thoại gọi cho Xuân và đi thẳng vào vấn đề…và
chàng chờ đợi tin vui từ câu trả lời của Xuân…Lặng thinh một giây lâu rồi bỗng
chốc Xuân sặc cười và nói: “Đông ơi là Đông, anh đang đùa hay đang điên thế…?
Chàng rưng rức van nài một lần nữa, Xuân trả lời một cách dứt khoát: “Tốt nhất
là chúng ta đừng bao giờ gặp nhau nữa nhé!” và nàng luống cuống tắt máy.
Như một gáo nước lạnh tạt
vào mặt, chàng giận và hận nàng lắm. Suốt đêm chàng không sao ngủ được, chàng nghĩ
đúng là hoa hồng càng đẹp gai càng nhọn! Chàng không hiểu vì sao nàng lại sợ hãi
sự thực, sợ hãi tình yêu và hôn nhân trong khi Xuân cũng đã yêu chàng và họ đã
có lời thề sắc son từ thuở ban đầu lưu luyến ấy kia mà.
Chàng là Việt kiều, chàng có thể về Việt Nam hay bất cứ nơi đâu để cưới cô gái
xin đẹp tuổi mười tám đôi mươi nếu chàng muốn. Đông nghi ngờ
nàng…Phải chăng nàng đã dối lừa chàng (?) Phải chăng nửa hồn của Xuân đã
cập vào một bến lạ…(?) và chàng muốn đi tìm sự thực,
chàng muốn biết sự thực. Chàng muốn gây sự bất ngờ đối với Xuân….
…Mệt mõi qua hai chuyến bay về Việt Nam, chàng vẫn không ngủ
được, có lẽ không quen khí hậu và thời giờ khác biệt giữa Việt Nam và Hoa kỳ vì
chàng từ giã nó đã ba mươi sáu năm, và điều quan trọng nhất là những thao thức
mà chàng dự tính cho ngày mai. Đông bước ra khỏi giường rất sớm, tắm rửa sạch
sẽ, gọi người lao công khách sạn mua cho chàng một tô phở điểm tâm, xong chàng
mở máy laptop để xem tin tức Hoa Kỳ qua những trang web hải ngoại như thường
lệ….đến chín giờ chàng có cuộc hẹn với những người bạn cũ và đi ăn trưa tại một
nhà hàng hải sản cùng họ, xong chàng trở về lại khách sạn.
Đông đến trước tủ kiếng lớn để nhìn ngắm dung nhan của mình: “mắt
to, mũi thẳng, da trắng nổi bật bên màu tóc đen lóng lánh vừa mới nhuộm và chải
keo mềm, dù có không ít vết nhăn trên khuôn mặt và những dấu chân chim tơi bời ở
đuôi mắt…không sao, ta vẫn còn bảnh bao lắm, đàn ông ở độ tuổi này có được khuôn
mặt thanh lãm và vóc dáng như ta cũng hiếm…” chàng tự nhủ.
Chàng đeo kiếng nâu Ray-Ban, diện bộ com-lê France xanh với chiếc cà vạt đỏ
thẩm, mang đôi giày đen bóng láng hiệu Canali Italy và không quên xức nước hoa
Sexy Men. Chàng bước ra khỏi khách sạn và gọi taxi đưa chàng về hướng
Bình Chánh vùng ngoại ô Sài Gòn, nơi có vườn đào thơ mộng nằm cạnh căn nhà bé
nhỏ của Xuân.
“Hôm nay là ngày mồng hai tết, ba mươi sáu năm trước cũng vào một
chiều xuân ngày này ta và em gặp nhau ở vườn đào thơ mộng, không biết cội đào
già kia có còn ra hoa không? Không biết chim trên cành
có còn reo vui khi mình gặp gỡ…?” hàng trăm câu hỏi cứ lẩn thẩn trong đầu chàng
với ngày trở về “bí ẩn” này. Qua cửa kiếng xe, chàng
ngước nhìn bầu trời xanh bình lặng, những cụm mây trắng nổi trôi tạo thành dáng
vẻ thướt tha của kiều nữ ở độ tuổi xuân thì và chàng mường tượng đó là Xuân-Xuân
chưa từng phai, Xuân đẹp mãi nghìn đời.
Ô kìa đây rồi! Đông bước xuống xe, chàng lặng người một giây lâu để ngắm vườn đào không gì
thay đổi. Chàng không biết nó là vườn đào của ba mươi sáu năm hay người ta mới
trồng lại trong những năm gần đây. Chàng tới gốc gây đào xưa và thẩn thờ ngắm
những cánh hoa đào phơi sắc trong nắng và gió, những nụ hoa hồng thắm vừa mới nở
e ấp duyên dáng như mời gọi chàng; khẽ lung linh trong gió mới, những cánh hoa
đu đưa khiến cho bóng nắng cứ vờn qua vờn lại như những bức tranh di động muôn
màu. Chàng nâng một nụ hoa rồi hôn lên nó, hít vào thật sâu để tận hưởng trọn
vẹn hương hoa của ngày xuân chớm nở; chàng nhắm mắt lặng nghe tiếng chim hót,
tiếng gió thì thào bên những cành đào xuân thì, chàng mơ màng dư âm ngày cũ đâu
đây hiện về trong phút giây thực tại…Chàng run rẩy với hạnh phúc đơn sơ mà chàng
đã bị tuột mất qua những tháng năm dài ray rức.
Chậm rãi, Đông bước tới cuối vườn đào và đi về hướng trái, căn
nhà của Xuân hiện ra với tường sơn xanh mới tinh thay vì đó là ngôi nhà gỗ cũ
kỹ; chàng móc địa chỉ trong túi áo ra và dò lại số 5/35, ‘đúng rồi’. Chàng gõ
cửa…tim chàng đánh thình thịch và chàng phải ôm chặt bó hoa hồng vì sợ nó bung
ra khỏi tay chàng; tiếng chốt sắc vừa kéo lên, cánh cửa mở tung, một phụ nữ già
run rẩy chống gậy, chân tay khô đét, đầu tóc lưa thưa trắng phau, mặt xệ da
nhăn, đôi mắt lem nhem, răng rụng gần hết, móm méo hỏi chàng sau một cơn ho sặc
sụa:
- Ông muốn tìm ai?
Đông lễ phép nói:
-Dạ thưa, cháu muốn gặp Xuân cụ ạ.
-Tui chính là Xuân đây, ông cần gì?
Bà ta vừa trả lời vừa ráng nhướng to đôi mắt để nhìn chàng.
Chàng chợt nhận ra giọng nói quen thuộc, khựng một lúc… rồi chàng
lấp bấp:
-x…in…l…ỗi!
Bó hoa hồng vụt rơi xuống đất, chàng lảo đảo bước nhanh về phía
vườn đào như bị ma rượt…
Đến gốc cây đào cũ, Đông
quỵ xuống và cảm thấy toàn thân rã rịu, một lúc sau chàng như sực tỉnh một điều
gì đó rồi cười như điên dại với chính chàng. Chàng há hốc mồm nhìn lên
cành xuân, những cánh đào tơ vẫn đang phơi phới khẽ gọi nửa hồn xuân, chàng lẩm
bẩm: “Đào hoa y cựu tiếu đông phong!”
Một tiếng chuông chùa vừa đổ ở bên kia
đồi. Đông đứng dậy hướng về phía ngôi cổ tự heo hút cuối trời
tây, chàng lững thững bước trên cái bóng xiêu vẹo của chính mình khi chiều đã
ngã vàng nắng nhạt.
TN.Tịnh Quang
TVHS