Lá thư Xuân
Thư tòa soạn số 2
(tháng 01.2012)
Mùa xuân là mùa
đầu của năm, đi trước các mùa khác. Xuân sang, khí
trời ấm áp, quang đãng
hơn, và muôn vật như bừng dậy sau một
giấc ngủ dài của mùa
đông lạnh lẽo, băng giá. Vậy, nói đến xuân, là nói
đến vẻ xinh tươi, xán lạn, rực rỡ, phong nhiêu…
của
đất trời, sông biển, núi rừng, cây cỏ, muông
thú…; và ở nơi người, là sức sống,
là tuổi trẻ, là sự
khai mở, vươn dậy của cả thể xác lẫn
tâm hồn. Đây là ý xuân của
thời tiết và đời sống muôn loài. Trong đó, mùa xuân
của con người
thường được
biểu hiện qua những ngày đầu năm, những ngày Tết, dương lịch hay âm lịch, đông phương hay tây phương. Những ngày đầu xuân là những
ngày lễ hội rộn ràng, vui vẻ,
nhộn nhịp và sinh động
với những cuộc thăm viếng, thú vui, lời chúc tụng và quà tặng.
Mùa xuân ấy vui nhưng
không tồn tại lâu dài. Mỗi năm
chỉ có vài tháng, sau
đó là phiên lượt của mùa khác.
Vận hành của thời tiết và vận
hành của đời người có chung
một tính chất: vô thường. Sinh, trụ, dị,
diệt. Ai cũng biết vậy nhưng không ai làm
được gì để có một mùa xuân
vĩnh cửu.
Đức Phật
đã chứng nghiệm một mùa xuân như
thế, không phải ở một thế giới nào khác, mà
chính ngay nơi trần gian này. Trong hữu
hạn tìm ra vô hạn,
trong vô thường nhìn ra chân thường.
Mùa xuân ấy có
sẵn nơi mọi người, mọi loài. Cho nên tất cả
kinh điển đều nhắm vào việc khai mở, hướng dẫn mọi loài trở về với tánh Phật sẵn có nơi chính
mình; và nói một cách
ẩn dụ văn chương thì chúng ta
tu học theo Phật
là để tìm lại mùa
xuân trường cửu. Mùa xuân ấy luôn hiện hữu, nhưng chúng ta không
thấy. Chúng ta chạy đuổi
theo những
cái tạm bợ, nhất thời và hữu
hạn mà quên đi nó
mà thôi.
Nhưng làm thế nào để
có mùa
xuân
hằng hữu nơi chính mình? Có nhiều phương
cách tu
tập,
không thể nói hết. Chỉ có thể mượn
mùa xuân của trần thế mà nghiệm
ra bản chất của mùa xuân vĩnh
hằng. Hạnh phúc
và an lạc của chúng ta đến từ đâu, đến như thế nào trong
tiếp xử với chính tự tâm của
mình và
tương
giao với con người, với thế giới? Nó không đến từ những phân biệt, đối đãi, xung đột, chấp tranh, vị ngã. Nó đến từ sự hòa hợp, bất phân, vô vi, vô
tránh, vô ngã. Các tranh chấp,
bất hòa của con người và muôn loài
trên thế giới này đều bắt nguồn từ tham lam, sân
hận,
si mê. Từ bất hòa tranh
chấp mà gây tạo khổ
đau cho nhau.
Không chấp
vào tự ngã, không
tranh
chấp vọng động với người, không cô phụ bản
tâm thanh tịnh sẵn có của mình,
đó là chìa khóa để
mở ra cánh cửa của mùa xuân
bất diệt. Và điều quan trọng nhất là phải tin rằng mùa xuân thường tại ở ngay nơi tự tâm mình; có
nghĩa rằng chúng ta tin
nơi
Phật tánh bình đẳng đã hàm hữu
nơi vạn loại chúng sanh. Có tin như thế
mới có thể trở về. Chúng ta không tìm kiếm Phật tánh, không tìm kiếm
mùa xuân bất diệt—vì cái sẵn có
và bất diệt thì không mất đâu mà tìm.
Chúng ta chỉ “trở
về” mà thôi.
Mùa xuân bất diệt ấy biểu hiện tướng và dụng của
nó trong đời sống hàng ngày, và
trong mùa xuân sinh-diệt của trần thế. Tùy theo duyên mà đến và đi. Nhưng
bản chất của mùa xuân,
bản chất của muôn sự muôn vật
vốn là vắng lặng, như nhiên:
Chư pháp tùng
bổn lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách
hoa khai
Hoàng oanh đề liễu thượng.
(Các pháp từ
xưa nay
Tướng thường tự vắng lặng
Xuân
đến trăm hoa khai
Hoàng
oanh hót đầu cành)
Mùa
xuân trần thế đang đến với chúng ta bằng
hình ảnh một con rồng (Nhâm Thìn),
khiến
người trong nhà Thiền không khỏi nhớ về Long Nữ con gái của Long Vương trong kinh Pháp
Hoa, phẩm Đề-bà Đạt-đa
(quyển thứ tư, phẩm thứ 12). Long Nữ tám tuổi đã thành Phật
là điều vi diệu, hy
hữu, khó tin. Nhưng kinh đã diễn thuyết như thế, cho ta thấy 3 điều khác thường: một là, không phải
thân người mà là loài
rồng; hai là, tuổi nhỏ (tuổi xuân); ba là
thân nữ. Ba điều chướng ngại để thành Phật mà Long Nữ đã làm được, chứng tỏ điều Phật dạy không hư dối: tất cả chúng sanh đều
có Phật tánh và đều
có thể thành Phật. Nói theo xuân
ý nhà Thiền thì ai cũng
có thể có được mùa xuân vĩnh
cửu, ai cũng có thể
đạt được
niềm hạnh phúc an lạc chân thật nếu trở về được bản tâm của
mình và
tu
tập đúng cách.
Một mùa xuân an lạc và miên trường,
là lời chúc nguyện đầu năm, chân thành gửi
đến tất cả.
Thay
mặt ban chủ trương, ban biên tập, và tòa
soạn Chánh Pháp, tri niệm công đức đóng góp tinh
thần, bài vở và tịnh
tài của chư tôn
đức, văn thi hữu, các phật-tử hộ trì Phật
Pháp, các thân chủ quảng cáo, cùng tất cả quý độc
giả gần-xa. Sự đóng góp tích cực
của chư
liệt vị trong các năm
qua đã giúp cho nguyệt san Chánh Pháp được
vững tiến và cải thiện
nhiều hơn từ nội dung đến hình thức. Với công đức
ấy, quý vị đã cùng chúng tôi
gián tiếp trao tặng một mùa xuân
trường cửu
đến muôn người, muôn nhà.
Trước thềm
xuân mới, ngày 01/01/2012
Chủ nhiệm
Sa môn
Thích Nguyên Trí