Buổi tối thứ hai mươi hai
Cái chết và lòng từ bi
Hình ảnh thường được dùng để diễn tả sự tu tập thiền quán, trí tuệ là một người
đang đi trên một sợi dây treo trên không. Khi chúng ta đi trên một
sợi dây treo lơ lững giữa trời, thì điều cần phải quan tâm là sự cân bằng: luôn
luôn giữ một thái độ ung dung, quân bình. Khi ta đang đi, sẽ có nhiều sự vật bay
ngang qua: những hình ảnh, những âm thanh, tình cảm, tư tưởng và ý niệm khác
nhau. Nếu ta ưa thích, ta sẽ có khuynh hướng vói theo,
cố nắm bắt, muốn giữ lại. Còn nếu những âm thanh, hình ảnh kia
là khó chịu, bực mình, ta cũng có khuynh hướng xua đuổi, đẩy chúng đi nơi khác.
Trong cả hai trường hợp, ta đều ngả mình tới, mất đi sự quân bình và có thể rơi
xuống.
Cả hai phản ứng ưa thích và ghét bỏ đều có cùng một nguy hiểm
như nhau.
Bất cứ một việc gì, dù có huy hoàng hay ghê sợ đến đâu, nếu chúng khiến ta mất
đi tâm quân bình, đều sẽ làm ta ngã. Cho nên lúc nào chúng ta cũng phải tiếp tục
và tiếp tục đào luyện một tâm an nhiên, không phản ứng bằng cách nắm bắt hay xua
đuổi bất cứ một đối tượng nào. Hãy tu tập một tâm vô chấp,
không dính mắc vào đâu cả, vào bất cứ một chuyện gì, cứ để chúng tự nhiên đến
rồi đi.
Sự vô chấp phát sinh từ sự hiểu biết thâm sâu về lý vô thường.
Trên một bình diện, trí tuệ này nhận thức được sự cấp bách và tính cách tất
nhiên của cái chết. Trong Chí Tôn Ca, Bhagavad Gita, có câu hỏi: “Trong
mọi điều kỳ lạ trên thế giới này, sự việc nào là kỳ lạ nhất?” Và câu trả lời là:
“Tất cả mọi người, mặc dù thấy những người chung
quanh mình chết, vẫn không tin rằng có một ngày mình cũng sẽ chết.”
Thường vì thất niệm mà ta trở nên tham lam thu thập và chiếm hữu, muốn mình trở thành một nhân vật quan
trọng. Chúng ta chấp vào các việc làm của những tâm ý nhỏ nhen,
coi những tham vọng, cái tôi của mình là quan trọng nhất.
Chúng ta đánh mất đi viễn tượng của một tâm lớn, về cái chết của mình.
Don Juan xem cái chết như một vị thầy; biết ý thức được cái chết không thể tránh
khỏi của mình với một thái độ sáng suốt và chấp nhận, mà không hề hối tiếc, buồn
lo hay sợ hãi. Quán tưởng về cái chết sẽ đem lại cho ta một
sức mạnh, giúp ta biết trân quý và sống trọn vẹn trong mỗi giây phút, mỗi hành
động.
Trong tâm thức của mỗi chúng ta đều có những khuôn mẫu, tạo
nên bởi các hành động của mình. Thường thì đa số những
hành động ấy là các thói quen xấu như giận dữ, yếm thế. Nhưng ta cũng có thể đem vào tâm một ý thức về cái chết, và dùng nó
để chiếu soi mọi sinh hoạt của mình. Nếu ta biết lấy
cái chết làm thầy, chúng ta sẽ sống mỗi giây phút thật trọn vẹn và chí tình, như
là một nỗ lực cuối cùng trong cuộc sống.
Khi ta biết giữ cái chết trong tầm tay, ta sẽ bớt đi sự
đam mê và quyến luyến những giây phút vui thú, thỏa mãn tạm thời. Và khi tâm không còn bị mê mờ vì ái dục và ảo tưởng, ta sẽ bớt đi
khuynh hướng muốn chiếm hữu và sẵn lòng san sẻ tình thương và sự độ lượng của
mình. Chánh niệm về cái chết cho ta một khoảng không gian sáng tỏ, giúp
ta hiểu được thật sự mình là ai và ai là người sẽ chết.
Trên bình diện này, hiểu được lý vô thường có nghĩa là ý thức được những giai
đoạn chuyển tiếp, ý thức được tính cách tạm thời của mọi hiện tượng từ giây phút
này sang giây phút kế tiếp. Trong mỗi sát-na, tiến trình thân
tâm và cả vũ trụ này đang khởi lên và mất đi, sinh và diệt tiếp nối nhau không
ngừng nghỉ. Sự tu tập của ta là để đào luyện một tâm tĩnh lặng và
an
nhiên, không xao động trước mọi sự thay đổi.
Phương pháp tu tập này bắt nguồn từ một yêu cầu duy nhất là: ý thức được những
gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại mà không phản ứng. Một thiền sư ở Ấn Độ
có dạy rằng, chúng ta chỉ cần ngồi và ý thức được rõ ràng là mình đang ngồi thì
toàn bộ giáo pháp sẽ tự nhiên hiển bày. Bạn sẽ thấy được thông suốt tự tính của vạn vật, và khi ấy giáo pháp
sẽ thật sự trở thành chính bạn.
Trong giai đoạn chuyển hóa này, nhờ ở sự quân bình và vô chấp,
những đức tính tốt đẹp và tự tại của tâm sẽ bắt đầu hiển lộ.
Một trong những đức tính này là lòng từ (metta). Lòng từ có nghĩa là lòng thương mình bằng một sự chấp nhận, không
phê phán, giữ một không gian thanh thản trong tâm; và lòng thương kẻ khác, nhưng
không vì lòng quyến luyến, muốn chiếm hữu. Đây không phải là một thứ tình
thương có điều kiện - thương người khác vì một đức tính hay đặc điểm nào đó, và
nếu họ thay đổi, tình thương của ta cũng chấm dứt. Nó không phải là một loại
tình thương “đổi chác” theo kiểu “Tôi thương bạn nếu bạn thương tôi.”
Lòng từ phát xuất do trí tuệ là một thứ tình thương vô điều kiện, một lòng đại
từ - một tình thân hữu, ấm áp đối với mọi loài ở mọi nơi. Tình
thương ấy không chỉ có giới hạn trong những người đang có liên hệ với mình. Nhưng không phải ta đi tìm kiếm người khác vì nhu cầu, vì mong muốn,
mà do sự phát tỏa tự nhiên của một tình thương không bờ bến.
Một đức tính nữa cũng bắt đầu hiển lộ là lòng bi.
Lòng bi không phải là tự thương hại hoặc thương hại người khác, mà là thấy được
sự đau khổ của mình và cảm nhận được những khổ đau của người khác.
Trong tiếng Pali có chữ “kilesa” thường được dịch là “những gì bất thiện”, nó
cũng có một nghĩa đặc biệt là “phiền não”. Những sự giận dữ,
tham lam, các tâm bất thiện đều có thể gây ra đau khổ.
Chúng ta có thể thấy rõ ảnh hưởng của chúng đối với thân tâm mình, nếu ta biết
quán chiếu khi chúng khởi sinh lên.
Một khi chúng ta hiểu sâu giáo pháp, ta sẽ cảm thấy thương xót chứ không phê
phán hay lên án những tính xấu của mình và ta sẽ thông cảm được nỗi khổ
đau của người khác khi họ rơi vào những trạng thái như vậy.
Thấy được tấm màn lưới chằng chịt của khổ đau mà tất cả chúng ta đang vướng vào,
ta sẽ có lòng thương xót đối với nhau hơn.
Một biểu lộ cao quí nhất trong những đức tính này là sự phô
bày của một cái rỗng không - vô ngã. Khi đã không còn
“tôi” thì sẽ không còn “người khác”. Ý niệm phân chia
sẽ biến mất. Lúc này ta cũng sẽ kinh nghiệm được cái
một, sự đồng nhất của vạn vật.
Albert Einstein có viết: “Con người là một phần nhỏ của một cái lớn mà chúng ta
quen gọi là vũ trụ. Phần nhỏ ấy bị giới hạn bởi thời gian và
không gian. Con người kinh nghiệm bản thân, tư tưởng của mình, cảm giác
của mình như là những gì riêng biệt với tất cả, đây chỉ là một loại vọng tưởng.
Vọng tưởng này là một thứ ngục tù của chúng ta, giới hạn ta vào một số tham vọng
cá nhân và tình thương đối với người quanh ta. Mục đích của ta là tự giải thoát mình ra khỏi ngục tù này, bằng cách
mở rộng lòng từ bi ra để ôm trọn mọi loài sinh linh và toàn cõi thiên nhiên với
vẻ đẹp vô cùng của nó.”
Ánh sáng của đức từ bi trong tâm ta bấy lâu nay bị tham, sân, si che phủ. Khi
chúng ta phá tan những đám mây mù này bằng sự quán chiếu của trí tuệ, thì đức từ
bi sẽ lại bắt đầu chiếu soi một cách tự tại như xưa.
Đức Phật có dạy một phương pháp tu tập để phát triển mạnh mẽ
những đức tính này trong đời sống.
Pháp tu này được gọi là Metta Bhavana hay là Từ bi quán. Thực
hành phương pháp này sẽ làm cho thiền Vipassana thêm phong phú, vì tạo ra được
khoảng không gian thênh thang và sự nhẹ nhàng trong tâm.
Pháp tu này củng cố khả năng quan sát mà không phê phán và giúp ta tránh được
khuynh hướng thường tình trên đường tu tập, tránh được sự mong muốn trở thành
một nhân vật nào khác.
Trên con đường tu tập, bạn sẽ nhận thấy rằng phương tiện và mục đích chỉ là một.
Muốn đạt đến mục đích an lạc, chánh niệm và tình thương, ta phải biết cách thực
hiện nó trong mỗi giây phút hiện tại.
Thường thì nên chúng ta thực hành Từ bi quán khoảng chừng năm hay mười phút
trước hoặc sau mỗi lần ngồi thiền, hoặc vào cả hai thời điểm. Vào trước khi ngồi
thiền, Từ bi quán sẽ tạo ra một khoảng không gian cởi mở mà ta có thể áp dụng
vào sự chú ý đơn thuần, và vào cuối giờ thiền thì những tư tưởng từ bi có một
ảnh hưởng rất mạnh vì tâm ta lúc đó đã được an định.
Phương pháp này rất giản dị.
Ngồi xuống trong một tư thế thoải mái. Trước hết, chúng
ta phải giải thoát tâm mình ra khỏi mọi sự căng thẳng hay thù hận, nếu có, bằng
cách xin và ban bố sự tha thứ: “Nếu tôi đã từng làm cho ai đau khổ hay thương
tổn bằng tư tưởng, lời nói hay hành động, tôi xin được tha thứ. Và tôi cũng tha
thứ hoàn toàn cho những ai đã từng làm tôi đau khổ hay tổn thương.” Niệm thầm
câu này vài ba lần trong sự tĩnh lặng là một phương pháp hiệu quả để gột rửa tâm
khỏi những cặn bã của hận thù hay tức giận.
Tiếp đó, trong khoảng một vài phút hãy hồi hướng những tư tưởng tốt lành đến cho
mình bằng cách niệm thầm câu này vài ba lần: “Xin cho tôi được hạnh phúc, xin
cho tôi được an lạc, xin cho tôi được thoát khỏi những khổ đau.”
Tập trung vào ý nghĩa của câu này. Chúng ta không thể
nào thật sự thương một người khác nếu ta không chấp nhận và thương chính mình.
Những danh từ, cách dùng chữ không quan trọng. Bạn hãy
chọn câu nào có thể gây một
sự rung động trong bạn và biến nó thành một câu thần
chú của tình thương.
Tiếp tục thực hành, bắt đầu phóng tỏa những tư tưởng và tình cảm này đến những
người khác: “Cũng như tôi muốn được hạnh phúc, cầu xin cho tất cả mọi loài được
hạnh phúc. Cũng như tôi muốn được an lạc, cầu xin cho mọi loài
đều được an lạc. Cũng như tôi muốn được thoát khỏi khổ đau, cầu xin cho mọi loài đều
được thoát khỏi khổ đau.” Niệm thầm câu này vài ba lần, rồi bắt đầu phóng tỏa tư tưởng từ bi
đến những người khác. Những câu này có thể được rút gọn lại một cách nhịp
nhàng và tụng đọc trong vòng năm hay mười phút: “Xin cho tất cả được hạnh phúc,
an lạc và không bị khổ đau.”
Bạn cũng có thể hướng những tư tưởng này đến một số người chọn
lọc nào đó, có thể là những người thân yêu hay chính những người bạn đang tức
giận hoặc có hiềm thù, như là cách cởi mở ra với lòng nhân hậu. Hãy hình
dung những người ấy trong đầu khi bạn niệm những lời này. Và
sau cùng hãy phóng tâm từ một lần nữa đến với mọi loài ở mọi nơi.
Trong thời gian đầu phương pháp này có vẻ như hơi máy móc, nhưng khi bạn thực
tập đều đặn, cố gắng tập trung vào ý nghĩa của những lời ấy, vào sự chúc lành
của bạn đến kẻ khác, dần dần tâm từ bi sẽ phát triển và trở nên vững mạnh.
Hỏi: Xin ông vui lòng giải thích thêm về sự liên hệ giữa từ bi và trí tuệ?
Đáp: Sự phát triển tâm từ là một loại thiền định làm cho tâm ta tập trung vào
một điểm duy nhất là tình thương. Nó hoạt động trên bình diện
thuộc về khái niệm, với một khái niệm “trở thành”. Đây là một phương pháp sử dụng khái niệm vô cùng khéo léo, vì nó tạo
nên một khoảng không gian, nhờ đó mà chánh niệm có thể hoạt động hiệu quả hơn.
Nói tóm lại, nó sử dụng định để đem lại sự nhẹ nhàng thanh thản trong tâm, nhờ
đó ta có thể đi sâu hơn vào bình diện trí tuệ.
Hỏi: Ông có thể nói thêm một chút về sự sáng tỏ được không?
Đáp: Trong những giờ ngồi thiền, có thể bạn đã có những kinh nghiệm là đôi khi
tâm mình rất sắc bén và sáng suốt, ý thức được mọi chuyện đang xảy ra trong mỗi
giây phút; và cũng có những lúc tâm bạn bị mù mờ, lộn xộn, không nhận diện được
sự việc một cách rõ ràng, mọi vật có vẻ mơ hồ. Nó cũng giống như trong một căn
phòng tối lờ mờ, nếu chúng ta vặn đèn lên thì mọi vật sẽ trở nên rõ rệt và sáng
tỏ hơn. Khi tâm ta không có đủ ánh sáng, ta không thể nào thấy rõ sự vật, ta có
thể thấy lờ mờ bóng dáng của chúng chứ không thấy những chi tiết. Còn khi tâm ta
có đủ ánh sáng, mọi vật có thể được phân biệt rõ ràng và nhờ vậy mọi tiến trình
đều trở thành sáng tỏ, dễ hiểu. Ánh sáng đó chính là ánh sáng của ý thức và
chánh niệm.
Hỏi: Nhưng rồi ta có bị chấp vào sự sáng tỏ đó không?
Đáp: Bạn có thể lắm chứ. Ta gọi đó là sự hư hoại của trí tuệ. Bạn phải ý thức
được tự thân của sự sáng tỏ, để khỏi bị vướng mắc hay chấp cho nó là mình. Bởi
vì sự sáng tỏ cũng chỉ là một phần của tiến trình. Khi chánh
niệm và định lực mới bắt đầu phát triển, người ta thường tưởng rằng lúc này mình
đã được giác ngộ, đã đến đích rồi, không còn gì nữa để làm.
Bởi vì lúc ấy ta cảm thấy thư
thái, nhẹ nhàng, an lạc và hạnh phúc lắm. Lúc ấy, vai trò của vị thầy rất quan
trọng, ông chỉ khuyên: “Hãy cứ tiếp tục ngồi thiền.”
Hỏi: Sự sáng tỏ ấy ở với ta qua mọi giai đoạn hay là chúng cũng chỉ đến rồi đi
như những hiện tượng khác?
Đáp: Khi ta tu tập tiến bộ, nó ở với ta lâu hơn, mặc dù không phải là mãi mãi.
Nó là một tâm hành phát triển mạnh theo sự thực hành
của mình. Bạn sẽ trải qua những giai đoạn tiến bộ của sự sáng tỏ, cho dù ở những
giai đoạn này ta không còn cảm thấy vui thú hay hỷ lạc nữa. Trong những trạng
thái khổ đau cũng vẫn có thể có sự sáng tỏ. Bạn sẽ trải qua những giai đoạn mà bạn kinh nghiệm một sự khổ đau vô
bờ cũng như niềm an lạc bất tận.
Trong cả hai trạng thái đều có một sự sáng tỏ. Con đường, như Don Juan đã nói,
là để đạt đến một sự toàn vẹn của con người. Không phải chỉ để kinh nghiệm một
khía cạnh, nhưng là để kinh nghiệm niềm hạnh phúc, nỗi khổ đau, sự trong sáng,
tất cả. Thấy được một cách trọn vẹn ta là ai.
Hỏi: Có phải từ bi chỉ ảnh hưởng tới tâm của mình mà thôi?
Đáp: Sức mạnh của một tâm từ khi được trợ lực bởi sự tập trung của tâm ý thì rất
mãnh liệt. Có một câu chuyện về đức Phật và người em họ của
ngài là Đề-bà-đạt-đa. Ông này muốn giết Phật để trở thành giáo chủ của Tăng đoàn.
Đề-bà-đạt-đa biết rằng ông không thể nào giết Phật một cách công khai được, nên
ông sắp đặt để cho một con voi đã uống rượu say chạy đến chỗ đức Phật đang đi
khất thực. Ông nghĩ rằng, hoặc là đức Phật sẽ sợ hãi bỏ chạy, như vậy thì
uy tín của ngài sẽ bị tiêu tan; hoặc nếu ngài ở lại thì sẽ bị con voi say kia
dày xéo đến chết. Khi đức Phật đang đi khất thực trên một con đường nhỏ hẹp,
Đề-bà-đạt-đa thả con voi say ra. Nhưng đức Phật không hề hoảng sợ hay bỏ chạy.
Ngài vẫn đứng điềm nhiên với một tâm định kiên cố, rồi ngài phóng tỏa những tư
tưởng từ bi đến con voi say ấy. Trong kinh kể lại rằng tâm từ của đức
Phật làm cho con voi trở nên an tĩnh, và nó từ từ quỳ
xuống trước chân ngài.
Hỏi: Tâm từ bi biểu lộ ra bằng cách nào?
Đáp: Lòng từ bi không nhất thiết phải theo một luật hành động nhất định nào. Nó
chỉ có nghĩa là cố hết sức mình để hành động bằng tình thương, bằng tâm từ qua
những phương thức thích hợp với hoàn cảnh. Điều quan
trọng là không nên tìm kiếm một công thức hành động nhất định để đem áp dụng cho
mọi hoàn cảnh, vì bạn phải thành thực với chính mình, với những gì mình đang cảm
nghĩ. Trong giai đoạn đầu thì cách thực hành Từ bi quán
rất máy móc. Tâm từ là một tâm hành, nó không phải là một cái gì huyền bí
mà ta nghĩ rằng mình có hay không có. Trên phương diện này, nó cũng giống như là chánh niệm, tâm định, trí
tuệ hay là tham, sân. Nếu ta biết trau dồi, nó sẽ phát
triển, còn nếu bỏ quên, nó sẽ héo hon đi. Lúc đầu thì
nó không có vẻ tự nhiên, nó đòi hỏi một sự cố gắng, nhưng khi luyện tập tiến bộ
ta sẽ trở nên thuần thục và tâm từ sẽ tự nó phát khởi.
Buổi tối thứ hai mươi lăm
Đạo
Trong đạo Lão có một câu chuyện về một thân cây mọc trên rừng. Cây ấy già và
cong queo, các cành đều cằn cỗi và đầy những vết sần sùi.
Có người đi ngang qua và nói với Trang Tử rằng cây ấy thật vô dụng, vì thân và
cành đều cong vòng, khúc khuỷu cho nên không thể dùng vào việc gì được hết.
Trang Tử đáp:
“Cây trên núi là tự vời người đến đốn phá. Mỡ chứa lửa là tự
làm cho mình bị thiêu đốt. Cây quế ăn được nên bị chặt. Cây sơn dùng được nên bị cắt.
Người biết dùng cái dùng được, mà không ai biết dùng cái không
dùng được. Sự vô dụng của cây là yếu tố bảo vệ cho nó.
Vì không ai cần nó nên chẳng ai đốn xuống, nhờ vậy mà nó được yên thân, sống
thọ, hưởng trọn kiếp thiên nhiên của mình.”
“Không ai biết dùng cái không dùng được”. Không dùng được có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là rỗng không,
không nỗ lực để trở thành một cái gì quan trọng, hay bất cứ một cái gì khác.
Đó là giải thoát tâm mình ra khỏi tư tưởng mong cầu. Trở nên vô dụng có
nghĩa là an định và để cho tự tính của mình được biểu
lộ một cách giản dị và tự nhiên.
Có một vị sư nổi tiếng ở Thái Lan đã tóm tắt thái độ này, và có lẽ trọn vẹn cả giáo pháp
trong một câu ngắn gọn. Ông nói: “Không có gì để trở thành, không có gì để làm,
không có gì để giữ.”
Chẳng có gì là quan trọng. Mọi vật đều vô thường và luôn trôi chảy, chuyển hóa. Nếu
chúng ta có thể tự giải thoát ra khỏi nỗ lực để trở thành một người nào quan
trọng, theo một đường hướng nào đó, hay là để đạt được một điều gì - không còn
ham muốn hành động, trở thành và chiếm hữu - chúng ta có thể an trú trong sự phô
bày của giáo pháp.
Đạo Lão thường bàn nhiều đến vấn đề trở nên vô hình trong cuộc
sống. Có một vị hoàng tử đi săn khỉ. Khi ông ta
vừa vào đến rừng thì những con khỉ thấy bóng dáng ông đã chạy tán loạn đi trốn
hết. Nhưng duy có một con khỉ vẫn cứ ngồi yên trên cành, không có vẻ gì sợ hãi.
Hoàng tử bèn lắp tên vào cung và bắn. Nhanh như chớp, con khỉ đưa
tay ra bắt lấy mũi tên trong khi nó vẫn còn đang bay tới.
Thấy vậy, vị hoàng tử ra lệnh cho tất cả quân lính của ông lắp tên vào cung bắn
một lượt.
Con khỉ bị trúng tên ngã xuống.
Bởi vì con khỉ ấy đã phô trương tài năng của nó, tự kiêu một cách vô lối, nên
tài năng ấy đã trở thành nguyên nhân cho sự diệt vong. Tương tự như vậy, khi
chúng ta hành động với một ý khoe khoang, muốn phô trương cái hay, cái giỏi của
mình, hay khi hành động phát xuất từ một sự chấp ngã, chúng sẽ tạo ra một lực
đối kháng, gây cho ta những xung đột và mâu thuẫn. Bước đi trong cuộc đời một
cách vô hình có nghĩa là không quan trọng hóa tài năng hay đức tính của mình,
không phô trương. Đây chính là thái độ của vô ngã, không có
một ý niệm tự quan trọng hay tự nỗ lực nào. Chỉ có mặt trong giờ phút
hiện tại, sống hòa hợp với hoàn cảnh chung quanh.
Một trong những khám phá quan trọng nhất khi tôi mới bắt đầu tu thiền là có rất
nhiều hành động bắt nguồn từ ý muốn tạo nên một hình ảnh về mình: trang sức
theo
một lối riêng, đối xử với người chung quanh theo một cách nào đó...
Tất cả đều xoay quanh ý niệm về một cái tôi mà tôi đã bỏ công tạo dựng và cố
gắng duy trì.
Cứ mang vác theo một hình ảnh về mình là một gánh nặng
gây ra một sự mâu thuẫn, đối chọi giữa con người thật của mình trong giây phút
hiện tại với hình ảnh mà mình mong muốn. Vấn đề không phải là hành động một cách
vô hình, mà là hành động với một sự vô ngã, giúp ta an
trú trong giáo pháp, trong đạo lớn. Chẳng có gì đặc biệt để ta
trở thành, chẳng có gì đặc biệt để ta làm, chẳng có gì đặc biệt để ta nắm giữ.
Chúng ta có thể buông bỏ những hình ảnh về mình, buông bỏ
những phóng ảnh, và mọi nỗ lực để duy trì chúng. Hãy an trú trong hiện tại và để cho nó tự hiển lộ không có một
mảy may thành kiến nào về con người thật của mình.
Suzuki Roshi trong quyển “Zen Mind Beginner’s Mind” (Thiền tâm, sơ tâm) có đưa
ra một thí dụ về sự thư thái và bao la của tâm ấy. Ông nói rằng cách hay nhất để
kiểm soát một con bò là cho nó một đồng cỏ thật rộng. Khó mà có thể kiểm soát
được một con bò trong một khoảng không gian nhỏ bé và giới hạn. Nhưng nếu bạn
cho nó một bầu trời bao la thì khoảng trời rộng lớn ấy sẽ giữ con bò lại.
Cũng vậy, một cách để kiểm soát tâm mình là để cho nó được thoải mái.
Không cần gì phải nhốt hay kiềm hãm nó lại trong một khoảng không gian chật hẹp.
Hãy thư thái và để cho nó tự nhiên hiện hữu, thoát ra
ngoài mọi cố gắng, ý niệm muốn đạt một việc gì. Hãy cho nó một cánh đồng cỏ bao la và nhìn nó tỏa bày. Thái
độ cố gắng để thực hiện một điều gì, để trở thành một người nào, đôi khi cũng
lan
tràn trong lãnh vực tu hành. Ý niệm tăng tiến, thủ đắc là một chướng ngại rất
lớn cho sự tu tập. Tất cả cũng vì ta không hiểu được tự thể
rỗng không của mọi vật, của đạo lớn.
Văn hào Wei Wu Wei đã diễn tả một cách hàm súc về vấn đề an
trú trong hiện tại và không cần nỗ lực. Ông nói: “Cái mà ta đang tìm kiếm là sự
tìm kiếm.” Không có cái gì ở bên ngoài ta để cho ta tìm kiếm,
nắm giữ hay là đạt đến. Ông nói: “Chỉ có một câu hỏi, và hỏi tức là trả
lời.” Hỏi tức là việc xảy ra trong giờ phút hiện tại.
Và đó cũng là câu trả lời cho câu hỏi. Câu trả lời không phải là một cái
gì “ở bên ngoài” mà ta cần phải tìm kiếm hay khám phá. Câu trả
lời cho câu hỏi trọng đại “ta là ai” chính là việc nêu lên nghi vấn ấy.
Điều này giúp ta hiểu được truyền thống thiền (Zen) và việc sử
dụng các công án, là những vấn đề không thể giải quyết. Chúng ta bắt tâm
mình phải suy nghĩ về những câu hỏi mà không thể nào có một sự giải đáp hợp lý
được, như là: “Hãy nói cho ta nghe về tiếng vỗ của một bàn tay?” Khi ta đi tìm câu trả lời bằng cách
cố gắng giải quyết vấn đề tức là ta đã không hiểu gì hết. Câu hỏi mà vấn đề đưa ra, nghi vấn của một công án, tự nó chính là
câu trả lời. Và sự thật thì lời giải đáp cho một công
án là không có câu trả lời nào hết! Nó chính là khả
năng ứng đối hoàn toàn trong giây phút hiện tại. Đây cũng là mục đích sự
tu tập của chúng ta: hoàn toàn sống trong giờ phút hiện tại - trong câu hỏi và
trong câu trả lời. Không phải đi tìm giải đáp bằng cách mong
cầu một loại tri thức, một
sự hiểu biết hay kiến thức nào
cả, nhưng là kinh nghiệm một cách trọn vẹn tiến trình xảy ra trong giờ phút hiện
tại.
Trở ngại to tát nhất cho sự an
định là cố chấp vào một hình ảnh, ý niệm về mình và những mơ tưởng về một nhân
vật mà mình muốn được trở thành. Chúng làm phức tạp một cách
không cần thiết cái kinh nghiệm giản dị của việc sống trong hiện tại.
Thường thì những người trên đường tu tập thường bị chấp kẹt vào một hình ảnh:
một hình ảnh về một nhà tu, một thiền sư, một đạo sư mà họ tự tạo nên, rồi cố
buộc mình phải hành động, sống theo
như vậy.
Trong thời gian tu tập ở Ấn Độ, tôi có ba vị thầy khác nhau.
Qua những vị thầy tôi học được một bài học vô cùng quan trọng: không có một
phương pháp duy nhất. Sự giác ngộ không được diễn tả qua một
cá tính, hay một tác phong duy nhất. Mỗi vị thầy đều có một cá tính
riêng, theo một cách thức hoàn
toàn khác nhau. Mỗi ngưòi đều là hiện thân của trí tuệ, tình
thương và sức mạnh, nhưng hoàn toàn không có một ý niệm rằng hiện thân này phải
được biểu hiện bằng cách này hay cách khác.
Wei Wu Wei nói rằng đức khiêm tốn chính là sự vắng mặt của một
cá nhân kiêu hãnh.
Nó không phải là một vị thế của thân hay của cá tính.
Sự khiêm tốn thật sự chính là vô ngã. Những vị thầy của tôi biểu lộ sự
“vắng mặt” này theo một lối riêng tự nhiên của họ. Sự nhận hiểu giáo pháp có
thể biểu lộ qua nhiều cách khác nhau, giúp ta hiểu rằng không có một đường lối
nhất định buộc ta phải theo. Trong sự tinh luyện này,
ta không phải đảm đương hay bắt chước theo một tác
phong nào hết. Cứ thoải mái và để cho những cá tính của ta
hiển bày một cách tự nhiên, hãy để giáo pháp phô bày.
Không có việc gì để làm, không có ai để trở thành và cũng không có gì để giữ
lấy. Với thái độ đó, ta có thể làm, có thể trở thành và có thể giữ lấy
một cách vô cùng tự tại.
Có một câu chuyện thiền nói về ý niệm chấp có mình và người
khác. Ngài tổng đốc Kyoto đến thăm một vị thiền sư, nhờ người thị giả đưa
danh thiếp vào. Trên danh thiếp có ghi tên ông với hàng
chữ “Tổng đốc Kyoto”. Vị thiền sư xem xong nói:
- Ta không biết người này là ai cả! Ngươi hãy bảo ông ấy cút đi cho khuất mắt
ta!
Người thị giả ra kể lại với lời xin lỗi. Tổng đốc nói:
“Không! Đó là lỗi của ta.” Rồi ông lấy bút gạch bỏ hàng chữ “Tổng đốc Kyoto”.
- Xin ông trình lại với thiền sư giúp tôi.
Vị thiền sư xem danh thiếp rồi kêu lên:
- Ồ! Hóa ra là ông ấy! Mời ông ấy vào ngay, ta đang muốn gặp!
Khi tự cho mình là “Tổng đốc Kyoto”, người này đã xa lìa đạo
pháp. Và khi tự giới thiệu mình như trong giờ phút hiện tại, không hình
ảnh, không chức tước, không ý niệm, thì lập tức ông được gặp thiền sư.
Khả năng ứng xử không bị giới hạn trong một hình ảnh nào luôn giúp ta có được sự
tự tại trong các mối liên hệ. Chúng ta rất thường tự
dồn ép bản thân và người khác vào những ngăn chứa tâm lý - “Hắn là như vậy đó,
tôi biết quá mà!” Vì thế, liên hệ của ta với người khác trở nên cố định,
qua tấm màn thành kiến. Nhưng sự vật thì thay đổi trong mỗi giây phút: tâm ta,
thân ta, hoàn cảnh chung quanh ta.... Ta phải biết uyển
chuyển thoát ra khỏi các thành kiến về mình hay người khác, để cho những thay
đổi này cùng sự hiểu biết của ta được cởi mở và không ngăn ngại.
Cuộc đời của chúng ta phần nhiều xoay quanh ý niệm về cái tôi với những nỗ lực
để bảo vệ và thỏa mãn nó. Năng lực này, khi mang vào trong sự
tu tập thì ngược lại, trở thành ý muốn chiến đấu với cái tôi, cho rằng nó là một
cái gì cần phải bị tiêu diệt. Nhưng chiến đấu với cái
tôi là vẫn chưa hiểu được tự tánh của sự vật.
Wei Wu Wei có sử dụng ẩn dụ con vịt trời để nói về điều này như sau:
“Muốn diệt cái tôi ư? Săn nó, đập nó, đánh hơi nó, nói cho ta
nghe nó trốn ở chỗ nào? Vui thú là cái chắc. Nhưng, nó ở đâu? Có phải ta cần tìm thấy nó
trước chăng?
Người ta nói rằng: Phải bắt được con vịt trời rồi mới nói đến chuyện làm thịt
nó.”
Vấn đề khó khăn ở đây là: không có con vịt trời nào cả! Mọi nỗ
lực, mọi công phu, cố gắng là để diệt trừ cái tôi... nhưng nó có hiện hữu bao
giờ đâu để cho ta tiêu diệt? Không có gì để ta ra sức
đeo đuổi và cũng không có gì để loại trừ. Chúng ta cần
phải chấm dứt việc tạo dựng một cái tôi trong mỗi giây phút.
Hãy sống trong giờ phút hiện tại mà không dùng ý niệm, hình ảnh. Sống một
cách giản dị và thư thái. Không có một mảy may tranh
đấu hay khích động nào trong cuộc sống vô hình, buông xả ấy.
Có một bài văn thật đẹp diễn tả về lối sống này:
“Thế nào là bậc chân nhân? Bậc chân nhân không nghịch với ai,
dù là thiểu số; không cầu công, không cầu danh. Người như vậy thì mất
không tiếc, được không mừng... Bậc chân nhân ngủ không mộng mị, thức
chẳng lo âu, ăn không cầu ngon, thở hít thâm sâu...
Bậc chân nhân không tham sống, không sợ chết. Lúc ra
không hăm hở, lúc vào không do dự; thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi.
Họ không quên lúc bắt đầu, không cầu lúc sau chót. Nhận lãnh cuộc sống thì vui với đó mà quên đi; khi cái chết đến,
phải trở về.
Đó gọi là không lấy cái “người” nơi mình mà làm trở ngại lẽ
“trời” nơi mình.
Thế gọi là chân nhân. Nhờ được thế mà
lòng luôn vững vàng, cử chỉ điềm đạm, gương mặt bình thản.
Lạnh như mùa thu mà ấm như mùa xuân.
Tất cả luân chuyển như bốn mùa nên cùng vạn vật hợp nhau, không biết đâu là
cùng.”
Hỏi: Làm sao có thể nỗ lực mà không có sự cố gắng?
Đáp: Chính nỗ lực của ta là để không còn cố gắng an trú
và có chánh niệm trong hiện tại. Có lẽ một vài bạn đã có kinh
nghiệm, khi chánh niệm tăng trưởng, không còn bị vướng mắc vào những thành kiến,
mơ tưởng của mình. Khi tâm ta ở trong trạng thái đó,
chẳng có gì để làm cả. Khi ta ngồi, chỉ có ngồi, và ta
ý thức
được bất cứ chuyện gì xảy ra một cách không cố gắng.
Hỏi: Dường như bây giờ tình trạng tu tập của tôi có thể được diễn tả như là một
người mơ ngủ trong thất niệm. Mặc dù kiên nhẫn, tôi vẫn mong
chờ khóa tu chấm dứt, luôn nghĩ đến những gì sau đó. Dường như là tôi chỉ
có thể làm được đến đó thôi...
Đáp: Có loại trí tuệ phát xuất từ việc ý thức rằng
mình đang mơ mộng viễn vông. Chỉ cần nhìn thoáng qua được cái tâm thơ thẩn, lang thang đó cũng đã chứng tỏ khả năng sống mà không bị lệ
thuộc vào những bóng dáng và ý niệm ấy.
Hỏi: Như thế thì ta chọn lựa một lối sống bằng cách nào?
Đáp: Điều đó có thể được thực hiện bằng cách ý thức về những nhu cầu cần thiết của mình, hơn
là những phương tiện để phô trương cái tôi. Thay vì coi nó như là sự hoàn tất
của một ước vọng cá nhân nào đó, chúng ta có thể làm những gì thích hợp trong
giây phút hiện tại, sẵn sàng để phục vụ và khởi sự vì lòng từ bi. Rồi mọi việc
sẽ tự trôi chảy một cách giản dị và thư thả.
Không có gì là đặc biệt để làm, để trở thành hay để nắm giữ.
Hỏi: Thế còn những dự định phải thực hiện thì sao?
Đáp: Tâm suy tính, hoạch định cũng chỉ xảy ra trong giờ phút hiện tại.
Hãy ý thức rằng
tâm dự định là một biểu hiệu của hiện tại. Sống với
những gì đang xảy ra, sử dụng tiến trình tư tưởng và cả toàn thể khuôn khổ của
khái niệm để đối phó với cuộc đời, nhưng bao giờ cũng đứng vững bằng một nhận thức rằng tất cả là bây giờ.
Hành động nhưng không mong cầu vào kết quả.
Hỏi: Khi tôi nói chuyện, tôi có rất nhiều ý kiến về những gì tôi muốn nói.
Tôi muốn biết, khi ta thật sự biết nghe và nói trong chánh niệm thì sẽ thế nào?
Đáp: Chỉ có mỗi một cách để biết được. Đó cũng là thông điệp của những công
án Zen. Một thiền sư trao cho người đệ tử của mình công án về chữ vô. Người đệ tử ngồi trên tọa cụ, suy nghĩ: “Vô,
vô, vô... Biết sẽ nói gì với thầy khi ông hỏi mình về công án này đây?...
Vô, vô...” Hay bất cứ một công án nào khác cũng vậy. Và
người đệ tử đi vào trình pháp với vị thầy, lúc nào cũng suy nghĩ: “Biết nói gì
đây?” Khi vị thiền sư hỏi về khám phá của anh ta trong công án
vô, anh sẽ tìm cách trả lời loanh quanh. Vị thầy sẽ dùng gậy
đánh anh ta, vì anh đã không chịu sống trong giờ phút hiện tại.
Câu trả lời cho một công án là không có câu trả lời nào
hết, ngoại trừ việc sống thật ngay trong giờ phút đó. Một sự
đáp ứng trọn vẹn, vô ngã, là lời giải đáp cho câu hỏi ấy.
Câu hỏi tức là câu trả lời. Cái mà ta đang tìm kiếm là
sự tìm kiếm. Tất cả đều là ngay bây giờ, trong lúc này.
Nhưng tâm ta thì luôn muốn đi tìm một câu trả lời dễ dàng của kẻ khác trao cho.
Tưởng rằng khi tôi biết câu trả lời, tức là tôi “giác ngộ”. Đó là khi mà ta bị đánh một gậy.
Việc bị đánh một gậy cũng chỉ xảy ra trong hiện tại, ngay ở
giây phút này.
Hỏi: Thế còn nghe nhạc thì sao?
Đáp: Âm nhạc là một thí dụ rất hay để thấy rằng, nếu ta không sống trong hiện
tại, ta sẽ đánh mất. Nếu bạn đang lắng nghe nhạc và tâm bắt
đầu suy nghĩ, âm nhạc không dừng lại để chờ bạn. Trong
thời gian bạn lo ra, bạn sẽ không lắng nghe. Đây có thể là một bài thực
tập rất hay khi cố gắng giữ tâm mình theo với dòng sông
âm thanh. Sự vô thường rất rõ rệt. Âm nhạc không phải là một sự kiện
đơn nhất, nhưng là một chuỗi liên tục những âm thanh khởi lên và mất đi tiếp nối
nhau.
Hỏi: Hình như ở đây có hai điều khác nhau rõ rệt là sự tỉnh thức và sự chú tâm vào một vấn đề. Tôi có thể
bị thu
hút vào trong âm nhạc mà không hề có chánh niệm; như vậy vẫn là ở trong hiện
tại, nhưng không ý thức được
mình đang sống trong hiện tại.
Đáp: Đó là sự khác biệt giữa định và quán. Ta có thể chú tâm hoàn toàn vào âm
nhạc mà không hề có chánh niệm, mặc dù có những chuyện đang xảy ra để cho ta ý thức. Lúc này tâm hành của định đang trội lên
hơn hết, tâm ta không bị lay động. Chỉ cần thêm vào đó một
chánh niệm sắc bén là đủ, bạn sẽ có được một phương pháp tu tập trọn vẹn.
Hỏi: Làm thế nào để trở nên trong sạch?
Đáp: Cái đẹp của pháp tu này là chánh niệm tự nó sẽ thanh lọc tất cả. Ta không
cần phải thiết lập một chương trình nào cho mình, “Tôi sẽ trở nên thanh tịnh”,
vì điều đó có phần mâu thuẫn. Ý thức được những gì đang xảy ra trong giờ phút
này chính là sự thanh lọc, để ta thấy được rằng không có gì để giữ lấy hay để
trở thành, chẳng có gì đặc biệt để làm hay giữ lại. Chỉ cần
ngồi xuống với một sự tỉnh thức.
Hỏi: Các bậc thánh nhân từ ngàn xưa đến giờ đã bỏ công ra truyền bá, viết sách,
chơi nhạc, sáng tạo... Đó có phải là những sự phô trương của
họ hay không?
Đáp: Khi bạn đã là vô hình, khi bạn không còn một tham vọng để làm hay đạt được
bất cứ điều gì, thì thật ra bạn có thể làm, hay trở thành, hay có được bất cứ
điều gì trên đời. Thật vậy, nhiều bậc giác ngộ đã diễn tả sự hiểu biết của mình
một cách tự khởi, trình bày giáo pháp qua văn chương, nghệ thuật, nhưng họ không
làm với một thái độ phô trương hay khoe khoang. Đó chỉ là một
phần của sự phô bày tự nhiên, tự khởi, phát xuất từ sự trực nhận, chứ không phải
vì một cái tôi hay là sự tự mãn. Có rất nhiều vị thầy là các nhà thơ,
nghệ sĩ, nhưng những nghệ thuật, sáng tạo ấy luôn phát xuất từ một tâm thức trống không.
Hỏi: Có thể nào vẫn còn sự ham muốn thực hiện một điều gì, hoặc giúp đỡ người
khác mà không là ích kỷ không?
Đáp: Trong môn Ý nghĩa học có một vấn đề về việc sử dụng chữ “tham muốn”, nó có hai trạng
thái. Một là cái muốn của lòng ái dục, của lòng tham muốn nắm
giữ một cái gì; hai là cái
muốn của sự phát động. Cái muốn của sự phát động có thể
bắt nguồn từ một trống không, từ trí tuệ hay từ tình thương.
Sự phát động này khác xa với những hành động bắt nguồn từ sự chấp ngã, chấp thủ.
Đức Phật sau khi thành đạo, đã đi giảng dạy trên bốn mươi lăm
năm. Ngài đã làm biết bao nhiêu việc, nhưng chẳng có ai
ở phía sau những hành động ấy cả. Nó là một sự phô bày
tự nhiên của giáo pháp. Và cuộc sống của ta cũng nên phô bày tự nhiên
theo
một lối riêng của nó, để biểu lộ tác phong và tự tính của ta. Nếu ta có thể hành
động, nhưng không với một ý nghĩ “Tôi phải thực hiện điều này để trở thành một
nhân vật quan trọng, để được danh tiếng hay giàu có”, chỉ để cho nó tự phô bày
trong giây phút hiện tại, thì mọi vật đều có thể thực hiện được.
Đây là một cánh cửa rộng lớn để đi vào sự tự do. Nếu chúng ta
có thể thoát ra ngoài sự chấp ngã và thành kiến về mình, ta có thể trở nên tự
nhiên và dễ cảm nhận đối với hoàn cảnh thay đổi chung quanh.
Nhưng nếu ta có bất cứ một hình ảnh nào về mình, về hành động của mình, những ý
niệm ấy sẽ trở thành một khăn che mắt, đưa ta vào con đường nhỏ hẹp, giới hạn
bởi sự cố chấp, thành kiến về mình, mất đi khả năng ứng phó với hoàn cảnh thay
đổi quanh ta.
Nếu chúng ta biết giữ sự cởi mở và tính cảm nhận, toàn tiến
trình sẽ trở thành một sự trao đổi có hòa điệu. Không cần phải tự giới hạn mình trong một khuôn khổ, hình ảnh để làm
gì. Hãy duy trì sự linh hoạt, duy trì sự cởi mở.
(Xem
tiếp)