Buổi tối thứ mười bảy
Bài thực tập: Hôn trầm
Mỗi khi có một cơn đau xuất hiện ở đâu đó trong thân, ta thường có khuynh hướng
phản ứng bằng cách căng thẳng những bắp thịt ở một nơi khác. Vì vậy, thỉnh
thoảng ta nên buông thư, thả lỏng toàn thân, từng bộ
phận một, buông thả sự căng thẳng tích tụ vì những phản ứng sâu kín đối với các
cảm giác khó chịu. Nhờ vậy ta có thể tiếp tục ngồi lại mà quán chiếu các hiện tượng một
cách dễ dàng hơn.
Hãy tận dụng những giờ ngồi yên của mình để ngồi yên hoàn toàn
không cử động hay nhúc nhích. Sự quyết tâm này sẽ làm gia tăng sức mạnh
của tâm trên nhiều lãnh vực khác nhau. Sự tinh tấn và năng lực
sẽ được thêm vững mạnh, và sự yên lặng của thân sẽ làm tăng trưởng định lực và
chánh niệm. Thông thường thì thân ta phản ứng đối với
mọi cảm giác hay cảm thọ khó chịu, dù chúng thật nhỏ nhặt, bằng cách nhúc nhích
thân thể.
Nhưng chúng ta ít khi ý thức được tiến trình đó: cảm thấy hơi khó chịu, cho nên
đổi tư thế một chút. Bằng cách cương quyết không cử động trong
một giờ đồng hồ, chúng ta sẽ không thể nào trốn chạy, chúng ta buộc phải ý thức
những giây phút khó chịu ấy và những phản ứng của ta đối với chúng. Bạn
cũng có thể tăng những giờ ấy lên. Nếu bạn thấy dễ dàng hơn,
hãy quyết định ngồi lâu hơn.
Khi định lực phát triển, đôi khi tâm có thể rơi vào một trạng
thái dễ chịu giống như mê ngủ. Đây chính là hôn trầm.
Bạn có thể ngồi được thật lâu trong trạng thái này. Hãy tỉnh thức, đừng để chánh niệm bị xao lãng.
Khi nào bạn cảm thấy mình đang đi vào trạng thái hôm trầm, hãy cố gắng gia tăng
chánh niệm, để lúc nào cũng ý thức được những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện
tại. Được như vậy, trí tuệ sẽ phát triển, ta sẽ kinh nghiệm được tức khắc
sự sinh diệt của tư tưởng, của cảm thọ, hơi thở, những trạng thái của tâm thức.
Đừng để tâm rơi vào trạng thái hôn trầm.
Điều này có thể xảy ra khi ta ngồi yên quá lâu. Hãy giữ
chánh niệm. Đó chính là căn bản của trí tuệ. Phải luôn giữ một ý thức
sáng suốt.
Buổi tối thứ mười tám
Sự trong sạch và hạnh phúc
Nhà văn Mark Twain có kể câu chuyện về một người được sinh lên thiên đàng. Khi
anh ta đến nơi, người ta ban cho anh một đôi cánh và một cây đàn.
Những ngày đầu, anh dùng đôi cánh của mình để bay đi đây đó, và mỗi khi muốn nghe nhạc trên cõi trời, anh cầm
cây đàn lên gảy. Nhưng sau một thời gian, cả hai thứ ấy trở thành một gánh nặng cho
anh. Cuối cùng, anh khám phá ra rằng ở thiên đàng không
cần đến đôi cánh để đi đây đó, và chỉ cần khởi ý muốn là tự nhiên những nhạc
công trên trời sẽ hiện ra và hòa tấu nhạc cho anh nghe.
Vậy là anh ta bỏ đôi cánh và cây đàn xuống, và anh bắt đầu thật sự vui chơi.
Cũng vậy, chúng ta đôi khi tự giới hạn chính mình bằng những ý
niệm về vấn đề trong sạch và hạnh phúc. Chúng ta tự mang lên trên người
những đôi cánh, cây đàn, hào quang không cần thiết, khi nghĩ rằng hạnh phúc có nghĩa
là phải có một cái gì hay là phải hành động theo một
cách thức đặc biệt nào đó. Khi chúng ta dẹp qua một bên những
quan niệm hẹp hòi, ta sẽ có thể bắt đầu kinh nghiệm được những niềm vui sâu xa
hơn.
Có nhiều loại hạnh phúc khác nhau, tùy thuộc vào mức độ trong
sạch của mình.
Sắc dục hay là thú vui qua các giác quan là loại hạnh phúc đầu tiên mà ta có thể
cảm nhận được: nhìn những cảnh đẹp, nghe những âm thanh êm tai,
ngửi nếm những mùi vị thơm ngon, có những cảm giác thoải mái... Là con người,
chúng ta ai cũng đã nhiều lần được hưởng những thú vui này.
Mặc dù chúng chỉ tạm bợ, nhưng chúng cũng đã đem lại cho ta một phần nào thú vị,
hạnh phúc.
Lại còn có một loại hạnh phúc sắc dục cao quý hơn được mô tả
trong kinh sách, về những cõi trời, nơi mà mọi vật đều tuyệt mỹ và tươi mát.
Chúng sinh ở đây có thân bằng ánh sáng, không biết đến
sự đau đớn hay khó chịu. Mọi thú vui ham muốn đều được thỏa mãn. Nơi
đây có những lâu đài làm bằng ngọc quý, có những nhạc công thiên thần, cùng tiên
thánh và các hàng Bồ Tát.
Kinh nói rằng đức Bồ Tát Di-lặc, vị Phật tương lai, hiện đang ngự trị ở một cõi
trời như thế và đang thuyết pháp cho chúng sinh ở đó nghe.
Hạnh phúc ở cõi trời thuộc vào loại cao quý hơn.
Con đường đưa đến hạnh phúc trong sạch trong cõi Dục giới là những hành động
trong sạch, giai đoạn đầu tiên của sự tinh luyện. Những hành động trong sạch có
nghĩa là thực hành bố thí, trì giới, không chạy
theo tham, sân, si. Những hành động trong sạch này là
nhân sinh ra những quả tốt lành, hạnh phúc, để ta hưởng thụ cả trong hai cõi
người và trời.
Có một loại hạnh phúc cao hơn cả hạnh phúc của cõi trời.
Đó chính là sự hạnh phúc và an lạc của thiền định. Khi tâm đã phát triển
một định lực cao độ, ta sẽ có một niềm an lạc siêu thoát, vi
diệu, vượt trên mọi khoái lạc sắc dục. Tâm ta lúc ấy không
còn chạy theo những đối tượng của các giác quan và hoàn
toàn tập trung vào một đề mục duy nhất. Hạnh phúc này vững bền
hơn những khoái lạc của các giác quan, vì những hạnh phúc của sắc dục đến và đi
rất mau chóng.
Có những trạng thái của tâm có thể đạt được bằng sức mạnh của
thiền định, gọi là cõi Phạm thiên hay cõi của Bốn tâm vô lượng.
Chúng có tên gọi như vậy vì phẩm chất của tâm lúc đó tương đương với cõi trời
Phạm thiên, một cảnh giới cao tột nhất mà ta có thể kinh nghiệm được.
Tâm vô lượng đầu tiên là tâm đại từ. Từ ở đây không có nghĩa
là lòng thương vì sự quyến luyến hay ý muốn chiếm hữu, mà là một lòng thương yêu
mong muốn cho hết thảy chúng sinh khắp nơi đều được an lạc và hạnh phúc. Ở trạng thái này, tâm ta có một định lực rất mạnh, có khả năng phóng
tỏa tình thương vô tận đi khắp mọi phương hướng.
Tâm vô lượng thứ hai là tâm đại bi, có nghĩa là lòng thương
xót mọi loài đang chịu đau khổ - muốn làm vơi đi mọi nỗi khổ của chúng sinh.
Tâm vô lượng thứ ba là tâm đại hỷ, có nghĩa là chia sẻ niềm vui có được hạnh
phúc, an lạc của kẻ khác, thấy người khác được hạnh phúc mà mình cũng vui
theo. So với thói thường là ngược lại, người ta thường hay ghen tức, ganh
tỵ với hạnh phúc của kẻ khác. Một tâm biết hân hoan với niềm vui của người khác
sẽ luôn tỏa sáng và thanh thản, nhẹ nhàng.
Tâm vô lượng cuối cùng là tâm đại xả, có nghĩa là một tâm bình
đẳng, hoàn toàn không bị chi
phối bởi những thăng trầm, buồn
vui của cuộc đời. Một tâm lúc nào cũng giữ được sự bình đẳng và an ổn.
Hạnh phúc của Bốn tâm vô lượng sẽ xuất hiện khi định lực được
phát triển đầy đủ. Cũng như sự trong sạch của phẩm hạnh tùy thuộc vào hành động, sự
trong sạch của tâm tùy thuộc vào định lực.
Nhưng còn có một niềm hạnh phúc to tát bội phần hơn cả cõi
Phạm thiên, đó là hạnh phúc của thiền định, hạnh phúc của Vipassana, hạnh phúc
của trí tuệ. Tâm thức này có khả năng quán chiếu, thẩm thấu vào tự thể của mọi
vật, kinh nghiệm được sự sinh diệt của mọi hiện tượng một cách rõ rệt.
Hạnh phúc của Vipassana bao giờ cũng siêu việt hơn tất cả, vì trong nhận thức
sáng suốt hành giả được nếm mùi vị của tự do, giải thoát. Không phải đắm chìm trong những khoái lạc của sắc
dục, cũng không phải bị
thu hút vào trong một trạng thái an vui của thiền định. Niềm hạnh phúc ở
đây là của trí tuệ, khi tâm ta trở nên rực rỡ và tri giác tỏa chiếu sự trong
sáng của nó. Điều này cũng giống như khi ta lau chùi một ly thủy tinh cho đến
khi nó chiếu sáng lấp lánh. Bằng sự tu tập chánh niệm, tâm ta
cũng đạt đến một sự rực rỡ như vậy, và hưởng được niềm an lạc vô biên bắt nguồn
từ trí tuệ thâm sâu.
Có một giai đoạn tinh luyện gọi là quan niệm chân chánh, có
thể làm khởi lên hạnh phúc Vipassana. Quan niệm chân
chánh ở đây có nghĩa là thoát ra khỏi ý niệm về một cái ngã, sự mê chấp rằng ta
có một tự thể riêng biệt. Thật ra chúng ta chỉ là một
quá trình diễn tiến của thân và tâm, luôn hoạt động và chuyển biến. Có lần đức Phật giảng một bài kinh gọi
là “Tất cả”. Bài kinh có tên là Tất cả vì ngài diễn
tả mọi hiện tượng trong vỏn vẹn sáu câu: “Mắt và đối tượng của mắt.
Tai và âm thanh. Mũi và mùi hương. Lưỡi và vị nếm.
Thân và cảm giác.
Tâm thức và ý niệm hay những đối tượng của nó.”
Tất cả chỉ có vậy, ngoài những điều ấy không còn gì khác hơn nữa.
Đức Phật dạy rằng, cả thế giới chỉ hiện hữu trong phạm vi
tấm thân dài mấy thước này mà thôi. Hiểu được các giác quan căn bản và những đối
tượng của chúng, là ta hiểu được sự sinh diệt liên tục của sáu thức mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân và ý khi tiếp xúc với đối tượng của chúng là sáu
trần. Cả vũ trụ này chỉ là sự tập hợp của những chuỗi liên
tục, xảy ra rất nhanh của các sự nghe, thấy, ngửi, nếm, cảm giác và kinh nghiệm
những ý niệm khác nhau. Chỉ có sáu đối tượng và sáu thức để nhận biết
chúng: chúng ta chỉ là tiến trình liên tục này. Những sự kiện
ấy chẳng xảy đến cho một cá nhân nào hết. Không có một tự thể riêng biệt nào để ta có thể
gọi rằng: “cái này chính là tôi”, bởi vì mỗi thức và đối tượng của nó sinh lên và diệt
đi trong từng khoảnh khắc.
Đức Phật có diễn lại giáo lý này một cách thật cô đọng như sau: “Trong cái thấy,
chỉ có cái bị thấy; trong cái nghe, chỉ có cái bị nghe; trong cái cảm giác
(ngửi, nếm, đụng chạm) chỉ có cái bị cảm giác; trong cái suy nghĩ chỉ có cái bị
suy nghĩ.” Không có gì
khác ngoài những điều đó, hoàn toàn không có một
cá nhân nào để cho nó xảy đến.
Nghe, thấy, ngửi, nếm, cảm giác ở thân, ý thức. Hiện hữu của
ta chỉ là một chuỗi liên tục của sáu tiến trình này.
Chúng ta đặt tên cho sự vật rất nhiều.
Có vô số ý niệm để diễn tả những kinh nghiệm của ta. Nhưng mắt ta chỉ thấy màu sắc và hình dáng, nó không
thấy những tên gọi. Chúng ta chỉ nghe âm thanh.
Chúng ta đặt tên cho những âm thanh khác khau, nhưng thật ra chúng chỉ là sự
rung động trong không khí chạm vào lỗ tai, khiến cho nhĩ thức khởi sinh lên. Một mối liên hệ đơn
giản giữa nhân và quả. Chẳng có ai ở đó. Sự việc xảy ra quá nhanh chóng, chúng gây cho ta một ảo giác là
những việc ấy xảy đến cho một người nào. Khi tâm ta yên
lặng, ta sẽ bắt đầu kinh nghiệm được sự tinh luyện trong nhận thức của mình, ta
sẽ thấy rằng cái ta chỉ là một tiến trình của thức và trần, thoát ra ngoài ý
niệm về một tự thể riêng biệt. Và khi sự tinh luyện được thâm sâu, chúng ta sẽ trở thành là một với
dòng biến chuyển, thay vì là mê muội níu kéo, chấp giữ nó.
Quan niệm chân chánh nghĩa là có một ý thức rõ ràng, nhìn sự vật bằng chân tướng
của nó, một khởi đầu cho cái nhìn biến thể. Đây chính là hạnh phúc đầu tiên của mùi vị giải thoát.
Hiểu được tự thân của sự vật là cánh cửa đi vào một hạnh phúc cao tột nhất: niềm
vui của Niết-bàn, giác ngộ. Nơi đây có một sự an tĩnh,
nghỉ ngơi, tươi mát vượt ra ngoài tiến trình thân tâm. Và một điều huyền diệu
của giáo pháp nữa là, mọi hạnh phúc đều sẽ đến với ta khi ta hướng về sự tự do
cao tột nhất.
Hỏi: Ông có thể diễn tả hạnh phúc của Niết-bàn được không?
Đáp: Niết-bàn có ba thứ hạnh phúc: Các hạnh phúc này được coi như là những niềm
vui khác nhau, phát xuất từ sự hoàn toàn chấm dứt khổ đau.
Khi tôi còn ở Ấn Độ, chúng tôi sống trên đỉnh một ngọn núi, và
cách đó một khoảng chừng nửa tiếng đi bộ, phía dưới một dốc núi khá cao, là một
khu chợ trời. Ở đây đa số hàng hóa đều được chuyên chở
bằng cách mang vác trên lưng. Có một số các bà lão người Tây Tạng, mang
trên lưng những thân cây thật to, leo lên núi mỗi ngày. Họ lê từng bước,
uốn cong người xuống, vác nặng trên lưng và đi lên dốc. Bạn hãy tưởng
tượng đến sự nhẹ nhàng, thoải mái của họ khi lên đến nơi và bỏ gánh nặng xuống!
Một cảm giác thư
thái vô cùng khi ta có thể trút bỏ đi gánh nặng ấy.
Hạnh phúc của Niết-bàn là trút bỏ được gánh nặng của khổ đau. Đây là hạnh phúc cao tột nhất.
Để hiểu được con đường phải đi và kinh nghiệm giác ngộ ra sao, có lẽ ta cũng nên
biết qua về những hạnh phúc khác nhau của Niết-bàn và các hoạt động của chúng.
Hạnh phúc đầu tiên hết là hạnh phúc do sự tích lũy của trí tuệ và chánh kiến,
được gọi là con đường tâm thức. Đây mới chỉ là một cái nhìn
thoáng qua, một kinh nghiệm đầu tiên của Niết-bàn. Con đường tâm thức này
có công năng nhổ tung hết mọi gốc rễ của khổ đau một cách mạnh mẽ như sấm sét.
Ở đây ta không đè nén khổ đau như trong khi thiền định,
nhưng là nhổ bứng tận gốc rễ, tháo tung mọi xiềng xích
trong tâm. Trong giai đoạn này ta diệt trừ được ba sợi dây
xích hằng trói buộc ta vào vòng sinh tử luân hồi từ bấy lâu nay.
Chúng là sự hoài nghi, mê tín (tin vào những hình thức, lễ
nghi như là một phương tiện dẫn đến giác ngộ) và chấp ngã. Ba chướng ngại
này sẽ bị loại trừ ra khỏi tâm ta một cách chớp nhoáng bằng con đường tâm thức
với đối tượng là Niết-bàn.
Ngay tiếp sau đó là loại hạnh phúc Niết-bàn thứ hai, được gọi
là quả tâm thức. Ta kinh nghiệm kết quả của con đường tu tập, mà đối
tượng cũng là Niết-bàn. Trong giai đoạn kết quả, không có gì để ta nhổ bứng, những việc ấy đã được
hoàn tất trong giai đoạn thứ nhất. Giai đoạn kết quả này là lúc mà ta kinh nghiệm được sự an lạc của
Niết-bàn. Những ai có một định lực kiên cố, có thể đi
vào trạng thái kết quả Niết-bàn này bất cứ khi nào họ muốn.
Họ ngồi xuống và có thể tự ý đi vào trong trạng thái này, hay trụ ở đây trong
vòng nửa tiếng, một tiếng hay một vài ngày. Trong kinh
nói rằng người ta có thể trụ trong sự an lạc của Niết-bàn trong thời gian tối đa
là bảy ngày
mỗi lần. Yên lặng, tươi mát, xả bỏ, tự do. Một khi ta ra khỏi
trạng thái kết quả ấy, vì tâm vẫn còn vướng víu những sự bất thiện khác, ta vẫn
phải tiếp tục đi theo con đường thiền quán.
Cũng giống như những gì chúng ta đang làm bây giờ đây, sự thực hành
được tiếp tục. Bạn thấy được sự sinh diệt của mọi hiện
tượng, bạn đi qua những trạng thái khác nhau. Bạn kinh
nghiệm được giai đoạn tâm thức thứ hai, điều đó trừ bỏ thêm một số điều bất
thiện trong tâm.
Có tất cả bốn giai đoạn tâm thức, mỗi giai
đoạn sẽ lần lượt thay nhau cắt đứt những sợi dây xích hằng trói buộc ta vào bánh xe sinh tử luân hồi.
Niết-bàn cao tột nhất được gọi là đại Niết-bàn (Parinirvana),
trạng thái của một người đã hoàn toàn giác ngộ đi đến sau khi chết.
Sẽ không còn luân
hồi, không còn năng lượng, không còn ái
dục để tái sinh. Điều này cũng giống như một ngọn lửa
đang bừng bừng cháy, giờ đã hoàn toàn bị dập tắt. Ngọn
lửa thiêu đốt đã tắt, giờ chỉ còn một trạng thái an lạc, yên lặng, và tươi mát.
Một hạnh phúc cao tột nhất. Đôi khi có người lại sợ đi
đến Niết-bàn sớm quá, họ muốn được xem thêm vài cuốn phim nữa, được hưởng thêm
một chút sắc dục nữa, hay là được ở trên cõi trời lâu thêm một chút.
Nhưng nếu bạn nhắm mục tiêu vào hạnh phúc cao thượng nhất, thì mọi thứ hạnh phúc
khác tự nhiên cũng sẽ đến.
Hỏi: Có thể nào chúng ta đang làm người rồi kiếp sau bị sinh làm thú vật hay không? Có cách nào sinh trở lại làm người được không?
Đáp: Sở dĩ kiếp người vô cùng quý giá là vì khi ta sinh vào một cõi thấp hơn, sẽ
rất khó để sinh trở lại vào một kiếp cao hơn. Vấn đề không phải là không thể
được, nhưng thời gian sẽ rất lâu. Đức Phật có kể một
thí dụ như sau để cho thấy khoảng thời gian ấy. Giả sử có một con rùa mù
mắt sống dưới đáy một đại dương. Trên mặt đại dương có một thân cây gỗ bộng nổi trôi bấp bênh đây đó.
Cứ mỗi một trăm
năm, con rùa ấy nổi lên mặt nước một lần, nhưng cơ hội để con rùa ấy có thể chui
vào bộng cây gỗ còn nhiều hơn là cơ hội để ta có thể được tái sinh làm người.
Đây là lý do vì sao được sinh làm người là một điều vô cùng quý giá, vì vậy ta không
nên hoang phí nó đi.
Hỏi: Tôi thấy rất khó có thể hiểu được làm cách nào ta có thể biết được những gì
xảy ra trước khi sinh và sau khi chết?
Đáp: Có hai cách để hiểu điều này. Một cách mà ta có thể dễ dàng nghĩ tới được là hiểu rõ tiến trình
hoạt động của các hiện tượng trong mỗi giây
phút. Sự sinh ra và hoại đi đang xảy ra liên tục, tâm
thức của ta đang khởi lên và diệt đi không ngừng. Sự hoại
diệt của tâm thức chính là cái chết. Không có một
cái gì của tâm thức đó được đem sang giai đoạn kế tiếp. Qua
kinh nghiệm của trí tuệ, bằng thiền quán, ta có thể đạt được một kinh nghiệm
nhất thời của sinh tử. Điều này sẽ giúp cho ta có được
một trực nhận về sự sinh diệt của tâm thức xảy ra giống hệt như thế.
Trong khi tu tập thiền định, với một định lực mãnh liệt ta có thể làm phát triển
một số thần thông. Có nhiều đạo sĩ
trong các tôn giáo khác đã tu luyện được những thần thông này. Một trong
những thần thông ấy là không những ta
có khả năng nhìn thấy được những cõi khác, mà còn thấy được những sinh linh đang
sinh tử luân hồi. Có người có được loại thiên nhãn này. Vị thầy của tôi, khi bàn về vấn đề này, thường đi vào chi tiết, diễn
tả những cõi trời khác nhau, và những thần thông mà người
ta có thể làm được. Nhưng bao giờ ông cũng kết luận bằng câu: “Các ông không cần phải
tin tôi. Sự thật là như vậy đó, nhưng không ai bắt buộc các ông phải tin.” Không một tín ngưỡng nào cần phải được chấp nhận
trên con đường thiền quán để tự hiểu mình. Trí tuệ đến bằng một phương pháp giản dị là ý thức được sự vật một
cách chính xác và sâu sắc, thoát ra khỏi mọi thành kiến và ý niệm sẵn có.
Thập nhị
nhân duyên
Vì sự
bí mật của sinh, lão, bệnh, tử mà các đức Phật xuất hiện trong cuộc đời. Không một thế giới nào mà không bị chi phối bởi sự thật này, và sự giác ngộ
của đức Phật chỉ có mục đích duy nhất là thấu hiểu nguyên nhân gốc rễ của nó.
Một trong những phần uyên thâm của giáo lý đạo Phật là mô tả về sự luân
chuyển không ngừng của sợi dây xích hiện hữu, được gọi là pháp nhân duyên.
Có
mười hai nhân duyên, nên thường gọi là Thập nhị nhân duyên, bao gồm: vô
minh, hành, thức tái
sinh, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh và lão bệnh tử.
Hai nhân duyên đầu tiên nói về các nhân được gieo trong những
kiếp quá khứ và làm điều kiện cho kiếp sau này. Trước
hết là vô minh. Vô minh có nghĩa là u tối, không
thấy chân lý, không hiểu giáo pháp, không biết Tứ diệu đế. Vì không ý thức được sự việc một
cách rõ ràng, không thấy đuợc sự thật khổ
đau, gốc rễ của nó và phương pháp giải thoát, cho nên vô minh làm điều kiện cho
nhân thứ hai
trong chuỗi 12 nhân duyên là hành.
Hành có nghĩa là ý chí, ý muốn bắt đầu cho những hành động của thân, khẩu và ý.
Những hành động này phát sinh do các tâm thiện hay bất thiện. Hành là do vô minh
tạo nên. Vì không hiểu được sự thật nên ta tạo tác đủ các nghiệp.
Nghiệp lực của những hành động này lại làm điều kiện cho mắt xích thứ ba trong chuỗi các nhân duyên là
thức tái sinh.
Thức tái sinh có nghĩa là tâm thức đầu
tiên khi ta mới sinh. Vì vô minh làm điều kiện cho nghiệp lực mà ta đã
tạo tác trong kiếp trước, thức tái sinh sẽ khởi lên trong giây phút thụ
thai. Tâm hành là nhân và thức tái sinh là quả. Đây là một liên hệ có điều kiện của luật nhân quả.
Vô minh sinh ra tâm hành, tạo nên nghiệp lực.
Nghiệp lực ấy làm phát sinh
thức tái sinh, là điều kiện bắt đầu cho đời sống này.
Vì có tâm thức đầu
tiên ấy mà hiện tượng danh sắc được khởi lên với đầy đủ mọi phần tử của thân và
mọi yếu tố của tâm. Rồi từ hiện tượng danh sắc mà lục
nhập phát sinh.
Lục nhập sẽ hình thành từ những quan năng của mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân và ý, được phát triển trong giai đoạn còn là bào thai.
Thức
tái sinh trong giây phút thụ thai làm điều kiện phát
sinh hiện tượng danh sắc. Vì sự có mặt của danh sắc mà lục nhập sinh ra.
Lục nhập là sự tiếp nhận
của những giác quan (căn) khi tiếp xúc với những đối tượng của chúng (trần), như
là mắt với màu sắc, tai với tiếng động, mũi với mùi, lưỡi với vị, thân với cảm
giác, ý với tư tưởng. Rồi lục nhập lại làm điều kiện cho xúc, vì xúc đòi hỏi cả
ba yếu tố: căn (giác quan), trần (đối tượng của giác quan) và thức (sự
nghe, thấy, ngửi, nếm, cảm giác và suy nghĩ). Như vậy, lục nhập làm phát sinh xúc.
Rồi
sự tiếp xúc giữa căn với trần làm phát sinh cảm thọ, hay thọ.
Thọ tức là những cảm giác dễ chịu, khó chịu hay trung hòa xảy ra trong từng
sát-na của tâm, khi có sự xúc chạm.
Dù sự tiếp xúc có qua những cánh cửa giác quan hay
là qua ý thức, thọ lúc nào cũng có mặt, và nó là một tâm
hành cơ bản. Cho nên, xúc làm điều kiện phát sinh thọ.
Bởi vì có thọ nên mới có ái. Ái là lòng tham dục, ham muốn, khao khát một vật gì.
Chúng ta muốn những gì?
Đó là những hình ảnh, âm thanh dễ chịu, những mùi vị thơm
ngon, những cảm giác, tư tưởng tươi mát, nhẹ nhàng...
Chúng ta muốn vứt bỏ những gì gây khó chịu.
Chúng ta khao khát hoặc trốn tránh những đối tượng khác nhau của lục nhập.
Ái là điều kiện phát sinh thủ. Thủ có nghĩa là nắm giữ, muốn lấy làm của mình.
Bởi vì chúng ta có tham dục với các đối tượng của sáu giác quan, nên ta muốn
chiếm giữ, nắm bắt. Ta nhận chúng là mình, gắn bó với chúng.
Rồi bởi vì thủ mà ta bắt đầu tạo nghiệp, tiếp tục những hành
động trong kiếp trước đã tạo nên thức tái
sinh cho kiếp này. Như vậy, thọ sinh ái, ái sinh thủ,
và thủ làm điều kiện cho hữu, tức là một sự hiện hữu
tiếp nối, làm năng lực cho hạt giống luân hồi, thức tái sinh cho kiếp sau.
Từ những nghiệp lực được tạo nên do thủ mà có sinh.
Vì sinh nên mới có bệnh tật, chán nản; có tàn hoại và đau đớn;
có khổ đau, có già chết.
Và bánh xe luân hồi tiếp tục xoay tròn như thế, kéo
theo một chuỗi nhân duyên vô ngã.
Vấn đề của đức Phật khi đi tìm chân lý - và của tất cả chúng
ta hôm nay - là làm sao tìm được một lối thoát ra khỏi cái vòng nhân duyên luẩn
quẩn này.
Trong đêm giác ngộ dưới gốc Bồ-đề, đức Phật đã đi ngược lại
dòng nhân duyên để tìm ra một lối thoát. Tại sao có già,
có bệnh, có chết? Vì có sinh.
Tại sao có sinh? Vì có hành phát khởi do tham, sân, si.
Nhưng tại sao chúng ta lại vướng víu vào những hành động này?
Vì có hữu. Tại sao có hữu? Vì có ái. Tại sao có ái? Vì có thọ, vì những cảm giác dễ chịu, khó chịu khởi lên.
Tại sao có thọ? Vì có xúc. Tại
sao có xúc? Vì có lục nhập, và mọi hiện tượng danh sắc.
Chúng ta không làm gì được khi đối diện với tiến trình thân
tâm này. Nó có vì
sự vô minh trong quá khứ và vì chúng ta đã sinh ra ở đây.
Không có cách nào để tránh sự tiếp xúc,
đụng chạm cả. Chúng ta không thể nào đóng lại những cửa
giác quan của mình, cho dù chúng ta có muốn. Mà đã có
tiếp xúc, đụng chạm thì ta không thể nào ngăn không cho thọ khỏi phát sinh lên
được. Hễ đã có xúc thì sẽ có thọ.
Đó là một tâm hành cơ bản của tâm. Nhưng cũng ngay ở
điểm quan trọng này, thọ, mà ta có thể cắt đứt được chuỗi nhân duyên liên tục ấy.
Hiểu được nguyên lý nhân duyên, “bởi vì cái này có mà cái kia
có”, chúng ta có thể chặt đứt sợi dây xích liên tục ấy. Khi một lạc thọ phát sinh, ta không nên nắm bắt, khi một khổ thọ có
mặt, ta không xua đuổi. Khi có một xả thọ, ta không rơi
vào quên lãng, thất niệm.
Đức Phật dạy rằng con đường của thất niệm là con đường của sự chết. Và
con đường của chánh niệm và trí tuệ là con đường đưa đến sự bất tử.
Chúng ta hoàn toàn tự do để phá tung
sợi dây xiềng xích này, thoát ra khỏi những phản ứng do điều kiện.
Chúng ta phải duy trì một sự tỉnh thức, một
chánh niệm vững chãi trong từng giây phút, để giữ cho cảm thọ không khởi sinh
lên ái dục.
Những khi ta thất niệm, cảm thọ sẽ làm cho ái dục phát sinh.
Nếu có điều gì dễ chịu, ta sinh ra sự ưa thích;
còn những gì khó chịu, ta lại có lòng muốn hủy diệt nó đi. Nhưng nếu thay
vì thất niệm, ta có chánh niệm và trí tuệ, thì mỗi khi có một cảm thọ sinh lên,
ta chỉ kinh nghiệm nó mà không phản ứng mù quáng theo
thói quen là nắm bắt hay chối bỏ.
Đối với một cảm thọ dễ chịu, ta kinh nghiệm nó bằng chánh niệm
mà không bám víu. Đối với cảm thọ khó chịu, ta kinh
nghiệm bằng chánh niệm mà không ghét bỏ. Cảm thọ không
còn làm phát khởi ái dục nữa. Bây giờ chỉ có chánh niệm,
vô tư, xả bỏ.
Không có ái dục thì sẽ không có thủ.
Không còn thủ thì hữu cũng sẽ không sinh.
Mà chúng ta không còn tạo nên năng lực thì sẽ không có tái sinh, không bệnh,
không già, không chết. Chúng ta hoàn toàn tự do. Không
còn bị lôi cuốn bởi vô minh và ái dục, tất cả khổ đau sẽ bị tiêu trừ hoàn toàn.
Mỗi giây phút của chánh niệm, tỉnh thức là
một nhát búa đập xuống sợi dây xiềng xích nhân duyên này. Những nhát búa
giáng xuống với sức mạnh của trí tuệ, của ý thức sẽ
làm cho sợi dây xích càng lúc càng yếu đi, cho đến khi nó bị đứt
tung.
Những gì chúng ta đang thực hành ở đây là quán chiếu sâu xa vào trong nguyên lý
nhân duyên, để giải thoát tâm ta ra khỏi sự ràng buộc của chúng.
Hỏi: Tôi thấy rằng càng đi sâu vào sự tu tập,
tôi lại càng cảm nhận được cái hay, cái đẹp của giáo pháp, tự tính của mọi sự vật.
Đáp: Hạnh phúc cao thượng nhất là hạnh phúc của Vipassana, hạnh phúc của trí tuệ,
nhìn thấy được thật tướng của vạn hữu.
Khi ta bắt đầu cảm nhận bằng tâm nguyên sơ như đứa trẻ thơ,
mỗi giây phút đều là mới lạ, tươi mát, thì trạng thái này an lạc lắm.
Cũng vậy,
sự sống của ta sẽ là một niềm vui lớn nếu ta biết sống với cái sơ tâm ấy,
một tâm không bị điều kiện chi phối, một tâm biết trực nghiệm thay vì tưởng
tượng. Đức Phật dạy rằng mùi vị của đạo pháp cao siêu vi diệu hơn mọi thứ mùi
vị khác. Nó đem lại cho ta một cảm giác sáng suốt, hiểu biết để nhìn rõ tự thể
của vạn hữu, để hòa hợp chung
một giai điệu và trở thành một với đạo lớn.
Nhưng trên con đường đi đến sự hòa điệu
hoàn toàn ấy, đôi khi ta phải trải qua một kinh nghiệm bất mãn rất sâu đậm. Một khổ đau mà ta đã thừa hưởng từ luật vô thường của cuộc sống.
Có nhiều người đã phải nếm qua mùi vị của sự chán nản
này. Những ai đã từng trải qua cảnh ngộ ấy, thường được một lợi ích là có
thái độ ung dung tự tại. Vì khi ta kinh nghiệm được một cách sâu xa những nỗi khổ đau của
thân và tâm, ta sẽ hiểu rõ giá trị của một thái độ vô chấp, xả bỏ, ta sẽ không
còn muốn nắm giữ nữa. Ta biết chúng chẳng có gì đáng để ham muốn. Và từ sự vô chấp ấy, tâm ta sẽ trở nên quân bình và
có thể nhìn sự thay đổi
của mọi vật bằng một thái độ ung dung, với một ý thức sáng tỏ và an lạc.
Hỏi: Muốn đạt được giác ngộ, ta có cần phải chết đi không?
Đáp: Giác ngộ có nghĩa là sự chết của tham, sân và si. Lý do chúng ta sợ
chết là vì ta không hiểu rằng tiến trình của sự chết đang xảy ra ngay trong giờ phút này.
Cho nên đối với những người không tu tập, họ có nỗi sợ phải mất đi thân này. Thật ra thì không có một ai chết cả, vì đâu có một cá nhân nào đứng
sau tiến trình ấy. Sự
thật chỉ là một chuỗi sinh diệt liên tục tiếp nối... theo sự lôi cuốn của ái và thủ.
Muốn giải trừ những điều kiện ấy, giải thoát tâm ta ra khỏi sự đam mê và
bám víu, ta phải kinh nghiệm được sự an vui lúc nào cũng đang có mặt, nhưng vì ái dục mà ta không
thấy được. Cũng giống như một con khỉ nắm chặt bàn tay, nó chẳng bị một ai trói buộc trừ ra lòng tham dục của
chính nó. Nó chỉ cần mở rộng bàn tay là thoát được.
Chúng ta cũng vậy, chỉ cần buông xả là có thể tự tại bước đi.
Nguyễn Duy Nhiên biên dịch
(xem tiếp)