Buổi tối thứ mười ba
Sự tương đồng
Một số nhà thần học Công giáo có viết những áng văn rất hay, tương tự với sự
thực hành của ta ở đây. Dưới đây là một đoạn văn của Thánh John of the Cross:
“Không phải vì ý muốn mà ta đã không viết cho các ông, thật sự thì ta luôn chúc
lành cho các ông; nhưng bởi vì ta thấy những gì lợi ích cho các ông ta đã nói
hết rồi, và sự cần thiết (nếu thật sự có một điều gì cần thiết) không phải là sự
giảng thuyết hay viết thêm - bởi ta nghĩ đã đủ lắm rồi - mà phải là thinh lặng
và thực hành. Trong khi sự giảng thuyết làm cho các ông bối
rối, lo ra, thì im lặng và hành động sẽ tập trung lại tâm ý ta và nâng cao linh
hồn. Một khi các ông đã hiểu được những gì ta muốn dạy cho các ông là tốt,
thì thôi đừng bàn luận hay tìm nghe giảng thêm làm gì nữa; hãy lo kiên trì mà
thực hành những gì các ông đã học được, trong thinh lặng và chánh niệm.”
Những việc chúng ta làm ở đây không phải là dễ, sự tu tập và
thanh lọc tâm. Việc ấy đòi hỏi một sự kiên nhẫn và nghị lực rất lớn. Nó không thể tự nhiên xảy ra được. Nhưng
bằng sự bền gan, vững chí mọi chuyện đều có thể đạt được.
Thánh Francis de Sales có viết:
“Mỗi khi tâm ông bị lo ra hay phân tán, hãy nhẹ nhàng kéo nó trở lại với sự suy
niệm... Và cho dù ông có bỏ ra cả một giờ chỉ ngồi để cố đem
tâm ý mình trở lại, để rồi nó lại đi mất ngay sau đó, thì một giờ ấy cũng đã
được sử dụng một cách rất hữu ích.”
Đừng để bị chán nản vì sự phân tâm hay vì những mơ mộng viễn vông của mình. Mỗi khi ý thức được tâm mình phóng đi một nơi khác, nhẹ nhàng đem nó
trở về với hơi thở hoặc là cảm giác của ta. Không cần biết điều đó xảy ra bao nhiêu lần, nếu cứ mỗi lần tâm ta
phóng đi, ta lại đem nó trở về, thì giờ ngồi thiền ấy sẽ rất có ích lợi. Hãy từ tốn với chính mình. Hãy kiên trì. Mặc dù có thể ta không nhận thấy rõ ràng, nhưng
đang có một sự chuyển hóa lớn lao xảy ra nơi ta. Điều này cũng giống như trái cây đang chín trên cành. Ánh
sáng mặt trời chiếu soi, trái cây chín dần, mặc dù ngày này sang ngày khác ta
không nhận thức được sự biến đổi ấy. Tương tự như vậy, sự biến
đổi và chín mùi trong tâm ta cũng đang tiến triển. Và
như Thánh John of the Cross nói, chính trong sự thinh lặng và thực hành mà sự
chuyển hóa này được hoàn tất.
Buổi tối thứ mười bốn
Tứ diệu đế
Thế giới này đầy dẫy những khổ đau. Mỗi ngày có hàng triệu người không đủ thực phẩm để nuôi thân, phải
chịu đựng những cơn đói. Có hàng triệu người không đủ quần áo che thân, nhà cửa
để trú ngụ, phải sống dưới những cơn mưa lạnh hoặc nắng cháy da. Lại có hàng
triệu người phải gánh chịu những cơn đau gây ra do bệnh tật. Mặc dù con người đã
sẵn có phương pháp trị liệu, nhưng họ vẫn không nhận được một sự chữa trị
nào. Sự khổ đau trong việc sinh
sản. Cái đau của người mẹ. Và
hơn nữa, cái đau của đứa con khi được sinh ra, bị đẩy qua người mẹ, ra thế giới
bên ngoài đầy những yếu tố va chạm, xây xát. Những thân
thể bệnh hoạn, già yếu và suy nhược. Sự
khổ đau của cái chết...
Có biết
bao người trên thế giới này đang sống bất lực trong tay
kẻ thù, trong tay những người muốn giết hại họ. Tại nhiều quốc gia, ngay giờ phút này đang có những tù nhân đang bị
tra tấn, đánh đập. Rồi còn sự tàn bạo
của chiến tranh. Những con người có tình cảm giống như
chúng ta, bất lực khi đối mặt khổ đau, họ không thể làm gì khác hơn được.
Có biết bao lần ta phải đối diện với những hoàn cảnh
giống như thế, và trong tương lai sẽ còn biết bao lần nữa.
Chỉ cần một chuyển động nhẹ của bánh xe nhân quả là ta
có thể trở thành những con người đó. Mang tấm thân này là ta
mang trên người bao mầm mống khổ đau.
Đã bao lần ta kinh nghiệm chúng, và sẽ còn
bao nhiêu lần nữa?
Những yếu tố vật chất trong thân ta được gọi là tứ đại. Chúng được gọi là “đại”, có nghĩa là lớn, vì năng lực tàn hoại của
chúng.
Bốn yếu tố cấu tạo nên thân ta cũng chính là bốn yếu tố cấu
tạo nên quả đất này, mặt trời, các hành tinh, và những vì tinh tú trong vũ trụ.
Chính bốn yếu tố này mà ta đang kinh nghiệm trong thân, chúng hoạt động
theo một định luật tự nhiên, cũng là nguyên nhân tạo dựng và tan rã của
những thái dương hệ hoặc các dãy ngân hà. Năng lượng của chúng rất
vĩ đại.
Trong một thời gian ngắn ngủi, tứ đại hòa hợp với nhau. Sự
hòa hợp tạm bợ này làm ta quên đi bản chất tàn hoại của chúng, cho đến khi chúng
biến đổi theo định luật tự nhiên, trở nên mất thăng
bằng và dẫn đến sự tàn hoại, tan rã của thân thể, đau khổ và
chết. Chúng ta như những đứa trẻ con vui chơi trong một căn nhà đang bị cháy.
Những đứa trẻ con đang mải mê chơi đùa, ham mê nhũng thú vui tạm bợ, hoàn toàn
quên đi quanh mình lửa đang bừng bừng thiêu đốt. Nhưng trời
đất vẫn còn lòng nhân từ, đã sai sứ giả đến báo trước những nguy hiểm, những khổ
đau đang hiện diện trong mọi khía cạnh.
Vị sứ giả ấy đang ngày đêm đặt ra cho chúng ta những câu hỏi rằng:
- Ngươi có thấy trong cuộc đời này có những ông lão, bà lão 80, 90 hay 100 tuổi,
yếu đuối, lưng cong vòng như mái nhà, cúi xuống vịn người trên chiếc gậy, chập
chững bước, suy nhược, tuổi trẻ đã mất lâu rồi, răng rụng, tóc bạc thưa.
Và có bao
giờ ngươi nghĩ rằng, rồi một ngày mình cũng sẽ bị tàn tạ như vậy? Ngay cả ngươi cũng sẽ không thể nào trốn tránh khỏi?
- Ngươi có thấy trong cuộc đời này có những người đàn ông, đàn bà bệnh hoạn, đau
khổ vì các chứng bệnh nan y, nằm trên những phẩn uế của chính mình, phải nhờ
người này đỡ ngồi dậy, nhờ người kia đặt xuống giường... Và có bao giờ ngươi nghĩ rằng, rồi một ngày mình cũng
sẽ bị bệnh hoạn như vậy? Ngay cả ngươi cũng không thể
nào thoát khỏi?
- Ngươi có bao giờ thấy trên cõi đời này, thây ma của một
người, sau khi chết một, hai hoặc ba ngày, sình lên, màu bầm tím, hôi thối.
Và có bao giờ ngươi nghĩ rằng, một ngày nào đó mình
cũng sẽ bị cái chết tìm đến. Ngay cả ngươi cũng không
thể nào thoát khỏi?
Tất cả chúng ta đều bị chi phối bởi những điều ấy. Cái chết không chừa một ai. Nó là sự chấm dứt của tất cả.
Không ai có thể trốn tránh
sự thật này.
Rồi còn những nỗi đau của tâm.
Buồn khổ, thất vọng, lo âu, hồi hộp, tức giận, căm hờn, sợ hãi,
ái dục, chán nản. Chúng ta còn phải chịu vướng trong
bẫy rập của sinh tử luân hồi, lôi kéo bởi tham dục và si mê trong bao lâu nữa?
Nỗi khổ bất tận... Mỗi sáng thức dậy
với những màu sắc và mùi vị, âm thanh và cảm giác, ý nghĩ... lặp đi lặp lại vô
tận. Chúng ta sống một ngày, qua một giấc ngủ, rồi lại thức dậy với cũng bấy nhiêu màu sắc, mùi vị, âm
thanh, cảm giác và ý nghĩ... trở đi, trở lại không dứt.
Cũng giống như những đứa trẻ mê chơi trong căn nhà lửa, chúng ta không chịu mở
mắt nhìn những nỗi đau trong cuộc sống của mình. Chúng ta nhốt
những người già, người bệnh vào nhà thương, viện dưỡng lão để ta khỏi phải chứng
kiến những nỗi sầu khổ của họ. Chúng ta đuổi những kẻ ăn mày ra khỏi đường phố của mình, để ta khỏi thấy những nhục
nhằn của sự nghèo khổ. Chúng ta chưng diện cho những thây ma để che giấu đi cái chết.
Chân lý đầu tiên đức Phật đã dạy là
sự khổ. Dù chúng ta có chối bỏ đến đâu đi nữa,
thân này rồi một ngày cũng sẽ già nua, bệnh hoạn. Rồi ta sẽ chết. Dù ta có cố tìm quên lãng
trong bao nhiêu thú vui đi chăng nữa, thì sự có mặt của giận hờn, thù ghét, lo âu, bối
rối và căng thẳng vẫn còn tồn tại. Chúng ta bị thiêu
đốt trong ngọn lửa tham, sân. Cho nên, chân lý đầu tiên, sự thật
trước hết là đau khổ.
Đức Phật không dừng lại ở đó. Sau khi
chỉ cho ta thấy sự thật khổ
đau, ngài giải thích cho ta nghe về nguyên nhân của chúng.
Cái gì đã trói cột chúng ta vào vòng quay khổ lụy này?
Đức Phật chỉ ra rằng sự trói buộc ấy nằm ngay trong tâm của mỗi
chúng ta. Chúng ta bị trói buộc vì lòng ái dục.
Chúng ta lăn theo bánh xe khổ đau vì ta đeo bám nó, và chúng ta đeo
bám nó vì vô minh, hay sự ngu si,
mê muội.
Có bốn sự si mê lớn là nguyên nhân chánh hằng trói
buộc chúng ta vào vòng quay khổ đau. Mối đam mê đầu tiên là sắc dục.
Sắc dục khiến ta lúc nào cũng đi tìm những âm thanh và hình
ảnh dễ chịu, những mùi vị ưa thích, những cảm giác êm ái của thân thể.
Chúng ta cứ mải mê đi tìm những thú vui tạm bợ, mỏng manh. Ta đeo đuổi
chúng như là chúng có thể giải quyết những khó khăn của ta, như là chúng có thể
đem đến sự chấm dứt khổ đau. Chúng ta sống trong sự mong đợi hai tuần nghỉ hè sắp tới, mong đợi
một mối liên hệ tình cảm kế tiếp, hoặc một cái gì đó để chiếm hữu... Lúc nào ta
cũng chờ đợi một hạnh phúc nào đó trong tương lai, ngoài tầm
tay với.
Mulla Nazrudin là một tu sĩ nổi danh của Hồi giáo.
Một hôm ông đi xuống chợ và thấy một thúng ớt cay bán hạ giá.
Ông mua hết cả thúng, đem về nhà và bắt đầu ngồi ăn. Những đệ tử của ông
nhìn thấy ông mặt mày đỏ ké, nước mắt tuôn chảy, miệng lưỡi bị nóng phỏng, bèn
kêu lên:
- Thầy ơi, tại sao khổ như thế mà thầy vẫn cứ ngồi ăn
hoài vậy?
Nazrudin lấy tay bốc thêm một trái ớt bỏ vào miệng rồi
đáp:
- Ta hy vọng rồi sẽ có một trái ớt ngọt!
Mối si mê thứ hai là sự cố chấp
vào ý kiến và quan điểm của mình. Chúng ta có rất nhiều ý kiến về những sự việc
chung quanh. Biết bao nhiêu là
thành kiến. Cố chấp vào quan điểm của mình là một trở
ngại rất to tát. Nó ngăn chặn không cho ta nhìn thấy
chân tướng của sự vật. Những thành kiến cá nhân giống
như một lăng
kính màu làm sai đi sự thật. Một thiền sư Thái Lan khi được hỏi,
những học trò của ông bị trở ngại nào lớn nhất, ông đáp: “Ý kiến, quan điểm, ý
niệm về mọi việc, về chính họ, về phương pháp tu tập, về giáo lý của đức Phật.
Đầu óc họ lúc nào cũng đầy dẫy những ý kiến. Họ cho mình là
khôn khéo nên không thèm lắng nghe ai hết. Cũng giống
như một tách nước vậy. Nếu tách ấy chứa đầy nước dơ,
bẩn đục thì cũng chỉ là vô dụng. Chỉ khi nào đổ đi nước cũ thì ta mới có thể sử dụng tách ấy lại được.
Họ phải bỏ qua một bên những ý kiến của mình thì mới có thể thấy biết được.”
Vị tổ thứ ba của thiền Trung Hoa là Tăng Xán có viết:
“Đừng đi tìm kiếm chân lý. Hãy thôi nâng niu những ý kiến của mình.” Nếu chúng ta dẹp được mối si mê này, giáo pháp sẽ phô bày.
Mọi hiện hữu sẽ có mặt. Chúng ta cần phải buông bỏ
những thành kiến của mình về bản chất sự vật và những mơ ước về chúng.
Hãy buông bỏ sự cố chấp
vào những ý kiến của mình. Đây chính là mối ràng buộc lớn thứ hai, đã giữ chúng ta trong vòng luân hồi
đau khổ.
Sự si
mê
thứ ba là cố chấp vào các lễ nghi và hình
thức: cho rằng chỉ cần thắp một nén nhang hay đốt một ngọn nến đặt trên
bàn thờ là mọi việc sẽ trở nên suôn sẻ. Những nghi lễ như đốt hương, thắp nến, đọc kinh, trì chú thường được
thực hành với hy vọng sẽ có khả năng làm chấm dứt được khổ đau này. Ngay
chính việc cố chấp vào những pháp tu, cố gắng để trở nên đạo đức, hay bất cứ
hình thức tâm linh gắn liền với vật chất nào cũng
đều là những sợi dây xích trói buộc ta.
Sự si mê thứ tư
rất kín đáo và sâu xa, đó là chấp ngã, nghĩa là chấp có một cái ta riêng biệt
cùng những sở hữu của nó, tin tưởng rằng có một tự thể thường hằng trong thân
tâm để kinh nghiệm những gì đang xảy ra. Bởi sự tin tưởng
này mà chúng ta đã lao vào những hành động bất thiện,
đủ mọi tham, sân, si chỉ để cố thỏa mãn cái ta này, một cái ta không hề có thật.
Sự
chấp ngã này rất sâu đậm, mọi hành động của ta đều xoay quanh nó, càng
lúc càng buộc chặt ta vào một khối khổ đau.
Chân lý
thứ hai đức Phật đã dạy là nguyên nhân của khổ đau: lòng ái dục. Đam mê
sắc dục, cố chấp vào quan điểm và ý kiến của mình, mê muội tin rằng những lễ
nghi, hình thức bên
ngoài có khả năng diệt được khổ đau, và nhất là cố chấp vào một cái tôi thường
hằng, bất biến. Không một ai bắt ta phải cố chấp. Không một quyền lực nào bên ngoài chúng ta giữ ta trong vòng sinh tử
luân hồi. Chỉ có
sự cố chấp, luyến ái trong tâm ta là có thể làm được chuyện đó mà thôi.
Ở châu Á người ta dùng một cái bẫy rất đặc biệt để bắt khỉ.
Một trái dừa được khoét lỗ để có thể buộc chặt vào một cây cột đóng trên mặt đất.
Người ta khoét một lỗ nhỏ vừa lọt bàn tay con khỉ và bỏ vào bên trong một thứ đồ ăn
ngọt. Cái lỗ được khoét thật khéo léo, sao cho vừa đủ để con khỉ có thể đút
tay vào, nhưng nếu nó nắm tay lại thì sẽ không thể rút trở ra. Con khỉ
đánh hơi được mùi thức ăn
ngọt sẽ tìm tới, đút tay vào để bốc lấy
thức ăn, rồi không thể rút tay ra được vì nắm chặt thức ăn. Khi người đặt bẫy
đến, con khỉ sẽ sợ hãi quýnh quáng nhưng không cách nào chạy đi được. Sự thật là không có ai
bắt giữ nó, ngoại trừ lòng tham của chính nó. Muốn thoát đi, nó chỉ cần
mở cái nắm tay ra. Nhưng vì lòng tham quá mạnh nên hiếm
khi có con khỉ nào thoát được bằng cách đó.
Chính vì lòng tham dục và quyến luyến trong tâm đã giữ chúng
ta trong bẫy sinh tử này. Chúng ta chỉ cần mở nắm tay
ra, buông bỏ hết những cố chấp, những tham muốn là có thể bước đi tự do.
Chân lý thứ ba đức Phật đã dạy là
sự chấm dứt của khổ đau. Niết-bàn là một trạng
thái thoát ra ngoài tiến trình thân tâm, không còn bị chi phối, ảnh hưởng bởi
bản chất khổ đau của chúng. Tự tại, an lạc, thanh tịnh,
tươi mát, buông xả... như là bỏ xuống một gánh nặng trên vai.
Niết-bàn có hai loại: loại thứ nhất là Niết-bàn nhất thời, tức là sự tự tại của một tâm thức không bị chi phối bởi tham, sân, si trong
từng giây, từng phút. Mỗi giây phút không bị ảnh hưởng bởi những sự bất thiện là một giây phút của tươi mát và
an lạc. Còn loại Niết-bàn thứ hai là một trạng thái thoát ra ngoài mọi
tiến trình, là sự chấm dứt hoàn toàn của khổ đau, dập tắt hẳn
đi ngọn lửa đang thiêu đốt.
Ví như có những người đang sống trên một vùng sa mạc
khô cằn. Nước rất hiếm, thực phẩm không đủ, và không có gì để
bảo vệ họ khỏi ánh nắng thiêu đốt của mặt trời. Nhưng
những người ấy đã quen sống trong hoàn cảnh ấy từ thuở nhỏ.
Cha ông của họ cũng đều như vậy, nên họ cho đó là tự nhiên và lấy đó làm hài
lòng.
Cho đến ngày kia, có một người trong bọn họ đi đến một
nơi có thời tiết mát mẻ, thực phẩm đầy đủ, khi ấy anh ta mới ý thức được
những điều kiện và hoàn cảnh bất lợi, cực khổ mà anh đã từng chịu đựng.
So với
sự an lạc, tươi mát và thinh lặng của Niết-bàn thì những tiến trình dài
vô tận của thân tâm,
sự
sinh diệt không ngừng là một gánh nặng to lớn, một khổ đau vĩ đại. Chân lý thứ ba là sự an lạc mà đức Phật nói rằng trên đời này
không có gì là hạnh phúc hơn.
Đức Phật cũng chỉ ra cho chúng ta con đường để đi đến sự an lạc
này. Đây không phải là một giáo lý bí mật chỉ dành cho một số
người. Chân lý thứ tư là Bát chánh đạo, một phương pháp để
buông bỏ gánh nặng đau khổ.
Đây không phải là con đường cực đoan. Nó không đòi hỏi ta phải hành hạ thân tâm,
không buộc ta phải đi tìm đến những nơi hẻo lánh, cũng không phải là con đường
khổ hạnh, không phải là con đường của sự sa đọa trong sắc dục. Đây là con đường trung đạo, con đường
của sự tỉnh thức.
Đi theo con đường này, ta luôn có chánh niệm về những
gì đang xảy ra quanh mình, luôn có ý
thức rõ ràng, không quyến luyến, không ghét bỏ, không nhận lầm những hiện
tượng là cái tôi, ta sẽ giải thoát tâm mình ra khỏi những điều bất thiện trong
từng giây phút.
Chân lý về khổ đau phải được ý thức. Chân lý về
nguyên nhân khổ đau phải được hiểu rõ. Chân lý về sự chấm dứt
khổ đau phải được kinh nghiệm.
Và con đường để chấm dứt khổ đau phải được thực hiện bởi mỗi chúng ta. Sự giác ngộ của đức Phật giải
quyết những vấn đề cho ngài chứ không giải quyết những khổ đau của ta.
Ngài chỉ vạch ra cho ta thấy một con đường để tự ta đi tới.
Không có một công thức
huyền bí nào có thể đưa ta ra khỏi khổ đau. Mỗi người
phải tự thanh lọc tâm mình, bởi vì chỉ có những ái dục trong tâm mới có khả năng
trói buộc ta mà thôi.
Buổi tối thứ mười lăm
Sự cương quyết nửa vời
Trong khi ngồi thiền, việc giữ cho thân được an tịnh có
một ảnh hưởng rất lớn đến sự an tịnh của tâm. Một phương cách để gia tăng định
lực là trước mỗi giờ ngồi thiền bạn nên nhất quyết rằng mình sẽ không thay đổi
thế ngồi trong suốt một giờ đó. Những lần đầu có thể rất khó khăn, nhưng nếu bạn
có một nghị lực vững mạnh, bạn có thể ngồi và quan sát bất cứ chuyện gì xảy ra.
Cho dù bạn có cảm thấy tâm mình trở nên bất an, bồn chồn, căng thẳng hay đang
đương đầu với cái đau, điều trọng yếu là khi đã quyết định một việc gì rồi bạn
hãy giữ nó cho đến cùng. Định lực và sự tinh tấn của bạn sẽ được tăng
trưởng mãnh liệt, và sau vài lần ngồi như vậy bạn sẽ cảm thấy việc ngồi yên trở
nên dễ dàng hơn.
Hãy giữ cho tâm bạn luôn ở trong trạng thái bất bạo động khi
quán chiếu bất cứ đối tượng nào.
Được như vậy thì sẽ không có gì là chướng ngại hay khó khăn.
Mọi đối tượng của thân hay tâm, trong hay ngoài, đều đi qua trong một không gian
chánh niệm.
Đừng vận dụng tâm để chạy theo hay trốn tránh bất cứ đối tượng nào: đó là sự bất
động của tâm ý. Khi ấy, tâm ta sẽ trở nên tĩnh lặng và quân bình, và nhờ đó ta
có thể nhìn thấy một cách rõ ràng, trong mỗi giây phút, sự sinh diệt của từng
hơi thở, từng cảm thọ, tư tưởng, cảm giác, âm thanh, mùi vị và hình ảnh.
Hãy ý thức được dòng vô thường.
Không có gì để ta nắm bắt, không có gì để quyến luyến.
Trong đoạn cuối của sách Mount Analogue có một ví dụ cho ta thấy sức mạnh của sự
vô thường và một thái độ thích hợp cho ta:
“Đừng bao giờ dừng lại trên một triền núi cao. Cho dù bạn có
nghĩ rằng bàn chân mình đang đứng vững vàng, vì khi bạn dừng lại để thở và nhìn
trời cao, thì đất dưới chân cũng đang bắt đầu lún xuống vì sức nặng của bạn. Những viên đá sỏi sẽ rơi ra từ từ và rồi đột nhiên tất cả sẽ sụp đổ
dưới chân bạn và phóng bạn đi như một chiếc tàu hạ thủy. Ngọn núi lúc nào cũng chờ đợi một cơ hội để quật ngã bạn.”
Không có thì giờ để cho ta ngừng nghỉ, nắm bắt, dù chỉ trong
phút chốc.
Mỗi khi ta cố gắng níu kéo một cái gì, ta sẽ bị lôi cuốn, trôi
lăn theo những ý nghĩ, ý niệm và sự tưởng tượng về nó.
Khóa tu này đã kéo dài gần nửa thời gian rồi.
Thường thì vào khoảng nửa chương trình, không cần biết khóa tu dài bao lâu, tâm
ta thường sinh ra chán nản, hơi lười biếng, dễ duôi và bồn chồn đôi chút.
Ta tự nghĩ rằng: “Mình đã cố gắng tinh tấn từ lúc mới bắt đầu đến giờ, lúc này
mình có thể nghỉ ngơi một chút.”
Hãy có chánh niệm về việc này.
Đây là lúc để ta gia tăng nghị lực, chứ không phải là lúc để giải đãi.
Hãy nghĩ lại công phu tu tập của bạn trong hai tuần vừa qua.
Hãy nhớ lại giai đoạn mới bắt đầu, ngồi yên trong một tiếng đồng hồ là khó khăn
đến thế nào. Bây giờ thì bạn đã phát triển được một sức
mạnh trong tâm, một năng lực của định và quán. Giai đoạn đầu của khóa tu là để xây dựng nền móng, để vượt qua những
khó khăn thô lậu, những trở ngại không cho bạn ngồi yên trong một tiếng đồng hồ.
Những khó khăn đó đã được ta vượt qua một phần nào rồi.
Tâm ta đã tĩnh lặng xuống. Nó bắt đầu thẩm thấu, bắt đầu quán chiếu và thấy được tiến trình
hoạt động của thân tâm. Trí tuệ đang trưởng thành.
Sự biến đổi của thân tâm rất khó có thể nhận diện được, vì nó thay đổi một cách
vô thức
trong từng giây phút. Nhưng sự tu tập đang dần dần trở
nên sâu sắc. Trong thời gian còn lại, chúng ta có thể hoàn tất được nhiều điều
lắm. Lúc này ta phải biết vận dụng năng lực để giữ cho tâm mình đừng rơi
vào tình trạng mê ngủ, hôn trầm.
Một lần nữa, chúng ta hãy nhất quyết duy trì sự thinh lặng.
Thinh lặng là cội nguồn của sức mạnh. Nó tạo nên một sự trong sáng, nhờ
vậy mà mọi hình trạng của tâm đều có thể được hiển bày rõ ràng.
Nếu cứ mỗi lần những bồn chồn, lười biếng, uể oải trong ta khởi lên, ta lại mở
miệng để nói, thì ta sẽ mất đi một dịp để quán chiếu chúng.
Sự thinh lặng giúp ta ý thức được những gì đang xảy ra, những tiến
triển và suy thoái.
Mục đích của thiền quán không phải là để ngồi yên với sự an
lạc, nhưng là để kinh nghiệm được sự nhất như của thân tâm.
Kinh nghiệm một cách trọn vẹn mọi đau nhức, mọi cảm giác an lạc, tất cả những uể
oải, buồn chán và những khi tâm ta đạt được một sự tập trung sắc bén.
Sự thinh lặng tạo ra một không gian tĩnh mịch để ta có thể quán sát được các
hiện trạng này. Nói chuyện nhiều sẽ tạo nên một vòng xoắn ốc
đi xuống.
Khi ta bất an, ta bắt đầu nói chuyện. Sự trò chuyện
khiến ta mất định lực và vì vậy tâm ta lại càng thêm bất an. Tinh tấn, duy trì
nghị lực và tạo một không gian tĩnh lặng quanh ta sẽ làm gia tăng thêm sức mạnh
cho sự tu tập. Làm sao biết chắc được đến bao giờ ta mới có
một dịp tu tập như thế này? Trong hoàn cảnh này, chúng ta đang có những điều kiện thuận lợi rất
đặc biệt. Nơi đây rất lý tưởng để ta có thể thám hiểm
chính mình, tìm xem ta thật sự là ai. Đừng lãng phí cơ
hội quí báu này.
Một yếu tố nữa có thể giúp ta gia tăng chánh niệm là hãy từ tốn, chậm lại.
Hành động một cách chậm rãi. Hãy xem mỗi hành động
trong ngày như là một đối tượng của thiền quán. Từ khi thức dậy
cho đến khi đi ngủ, hãy ghi nhận mọi việc xảy ra một cách rõ ràng và sáng suốt:
trong mỗi hành động khi tắm rửa, khi thay đồ, khi ăn uống...
Từ lâu nay chúng ta thường có thói quen làm việc gì cũng vội vã, hối hả chạy về
tương lai, lao nhanh đến những hoạt động kế tiếp, nên lúc nào cũng ở trong một
giai đoạn chuyển dịch, nối tiếp...
Hãy cố gắng an trú trong giây phút hiện tại này. Không có gì đáng để cho ta phải vội vã.
Không có một nơi chốn nào để đi đến.
Mục đích của chúng ta ở đây là để vun xới khả năng ghi nhận những gì đang xảy ra
trong giây phút hiện tại. Đừng ép buộc, cũng đừng nỗ
lực quá. Hãy an
trú trong giây phút này, đừng toan tính hay dự liệu một điều gì cho tương lai.
Giữ tâm mình thoải mái, nhưng với một chánh niệm sâu sắc.
Tâm ta sẽ dần dần thâm nhập vào những mức độ sâu thẳm hơn.
Sự thinh lặng và thái độ từ tốn không chỉ giúp ích cho chính
mình, mà còn cho cả những người quanh ta nữa. Khi chúng
ta nhìn thấy một người nào đó vội vã, điều đó sẽ khơi dậy tính hấp tấp trong ta.
Và khi ta thấy một người hành động khoan thai, có chánh
niệm, tự nhiên ta cũng sẽ giữ chánh niệm. Hãy ý thức được giá trị và ích lợi của mình đối với
người khác.
Khóa tu là một sự quân bình thật đẹp: mỗi người tự tu trong thinh lặng và tĩnh
mịch, nhưng cũng tạo ra môi trường giúp đỡ cho cả nhóm.
Buổi tối thứ mười sáu
Nghiệp báo
Có một người hỏi đức Phật rằng tại sao có người sinh ra lại giàu có, trong khi
những người khác nghèo khổ; có người được thân thể khỏe mạnh, trong khi kẻ khác
lại ốm yếu, bệnh tật? Tại sao có người đẹp đẽ và có người lại xấu xí?
Tại sao có người nhiều bạn hữu, trong khi người khác lại chẳng có ai?
Điều gì có thể giải thích được sự sai biệt
này giữa mọi người với nhau?
Đức Phật trả lời rằng mỗi người đều là kẻ thừa kế, nhận lấy
những nghiệp báo mà chính họ đã tạo ra trong quá khứ.
Thật ra, chính vì những việc làm trong quá khứ mà chúng ta mới sinh ra trong cõi
này. Cuộc sống mà chúng ta đang kinh nghiệm trong giờ
phút hiện tại đây chính là kết quả huân tập của những việc làm trong quá khứ.
Đức Phật còn giải thích thêm rằng những hành động như thế nào
sẽ đưa đến những kết quả như thế nào. Ngài nói, những
ai làm việc giết hại sẽ bị chết yểu. Những ai phóng sinh sẽ có một cuộc sống trường thọ.
Những người gây khổ đau cho kẻ khác sẽ sinh ra ốm yếu bệnh tật. Những ai
theo
con đường không bạo động, sẽ có một cuộc sống khỏe mạnh. Đức
Phật dạy rằng, những ai tham lam ích kỷ sẽ có một cuộc sống nghèo khó.
Những ai biết bố thí, rộng rãi sẽ được giàu có sung túc. Đây chính là sự vay trả theo
luật nhân quả. Mỗi hành động đều tạo thành một kết quả.
Những ai buông thả theo sự
tức giận, luôn sử dụng ngôn ngữ thô lỗ sẽ có một vẻ ngoài khó coi, xấu xí. Còn
những ai thực hành tâm từ bi, ăn nói dịu dàng, sẽ có
một vẻ ngoài đẹp đẽ, sáng sủa. Chúng ta là người nhận lãnh kết
quả những hành động của chính mình trong quá khứ. Những
người thường có hành động bất hòa, tà dâm, trộm cắp, sẽ phải giao du với những
kẻ mê muội, không có nhiều bạn hữu và sẽ không có cơ hội gặp Phật pháp.
Còn những ai biết giữ giới luật sẽ gặp những hoàn cảnh thuận tiện, giao du với
những thiện tri thức và được nhiều sự giúp đỡ
trong cuộc sống. Những ai không bao giờ biết thắc mắc về cuộc sống này,
không hề tìm hiểu bản tâm, cũng không để ý phân tách tự thể của sự vật chung
quanh, sẽ sinh ra với sự ngu si và mê muội. Còn những ai biết thắc
mắc, tìm hiểu, luôn đi tìm câu trả lời về ý nghĩa chân thật cuộc sống này, sẽ
sinh ra làm người sáng suốt, khôn ngoan. Tóm lại, tất cả chỉ
là sự vận hành
của luật nhân quả.
Không có ai ở trên trời quyết định số mạng, vận mệnh của ta
hết. Hiểu được luật nhân quả, ta sẽ có thể tự tạo lập
số mệnh cho mình. Có những con đường dẫn ta đến nơi cao
thượng, an lạc; cũng có những con đường đưa ta xuống chốn khổ đau. Khi
chúng ta hiểu được điều này, ta được tự do hoàn toàn trong sự chọn lựa
của mình.
Có bốn loại nghiệp chánh tác dụng đến đời sống chúng ta.
Loại thứ nhất
được gọi là nghiệp tái sinh. Chúng là sức mạnh quyết định cảnh giới cho kiếp sống sắp tới của ta,
được tạo ra bởi những hành động mà ta đã làm. Những hành động này có khả
năng dẫn ta tái sinh vào cảnh giới của người, hoặc những cảnh giới thấp hơn,
hoặc cảnh giới của chư thiên, hoặc của loài a-tu-la.
Loại thứ hai là nghiệp trợ duyên.
Đây là những hành động có ảnh hưởng duy trì và trợ lực cho
nghiệp tái sinh.
Thí dụ như ta có một nghiệp tái sinh tốt và được sinh vào cảnh
giới người. Đây là một cảnh giới có hạnh phúc.
Nghiệp trợ duyên là những việc làm giúp cho kiếp sống làm người của ta được
thuận lợi hơn. Chúng duy trì cho nghiệp tái sinh được
tốt và trợ lực cho các hạnh phúc được khởi sinh.
Loại thứ ba là nghiệp bổ đồng.
Nó có ảnh hưởng ngăn trở nghiệp tái sinh. Giả sử ta có những thiện duyên
và được tái sinh làm con người, nhưng chúng ta lại bị đủ mọi khó khăn, đau đớn,
khổ cực. Đó là ảnh hưởng của nghiệp bổ đồng. Nghiệp
tái sinh dẫn đến cảnh giới tốt có đầy thiện duyên, nhưng chúng bị ảnh hưởng của
nghiệp bổ đồng làm suy yếu và trở ngại, khiến ta gặp nhiều hoàn cảnh khó khăn.
Nhưng nghiệp bổ đồng cũng có tác dụng ngược lại.
Giả sử có người bị tái sinh vào cảnh giới súc sinh. Đây
là một nghiệp tái sinh xấu, vì bị sinh vào một cảnh giới thấp hơn.
Nhưng nghiệp bổ đồng khiến cho kiếp thú đó lại trở nên rất dễ chịu, cũng giống
như những con vật được nâng niu, chìu chuộng trong xã hội Tây phương.
Những con vật này đôi khi lại còn được sung sướng, đầy đủ hơn nhiều người khác
trên thế giới. Loại nghiệp này có tác dụng làm trở ngại nghiệp
tái sinh xấu. Nó có ảnh hưởng hai chiều.
Loại nghiệp cuối cùng được gọi là nghiệp tiêu diệt.
Nó có khả năng tiêu diệt hoàn toàn năng lực của một nghiệp khác.
Giả sử bạn bắn một mũi tên vào không trung. Mũi tên bay
theo một sức đẩy nhất định nào đó, và nếu không bị ngăn trở, nó sẽ tiếp
tục bay cho đến khi hết sức rồi sẽ rơi xuống. Nghiệp tiêu diệt cũng như một
chướng ngại vật chận đứng sức bay của mũi tên và làm nó rơi xuống đất.
Có những người bị chết yểu. Những người này có thể có nghiệp tái sinh và
nghiệp trợ duyên tốt đẹp, nhưng vì một hành động xấu nào đó trong quá khứ mà
nghiệp tiêu diệt đã làm ngưng đường bay của mũi tên, tiêu diệt mọi năng lực của
các nghiệp tốt khác.
Vào thời đức Phật, có một câu chuyện thí dụ cho ta thấy sự hoạt động của những nghiệp này.
Có một người cúng dường thực phẩm cho một vị A-la-hán.
Nhưng sau khi dâng thực phẩm lên, ông lại cảm thấy tiếc rẻ, hối hận.
Trong bảy kiếp liên tiếp sau đó, ông ta được sinh ra làm người giàu có nhờ kết
quả của việc cúng dường. Cúng dường cho một bậc giác
ngộ được phước báu rất lớn. Nhưng kết quả của sự hối hận,
tiếc rẻ là mặc dù ông ta sinh ra giàu có nhưng lúc nào cũng keo kiệt, hoàn toàn
không hưởng được sự sung túc của mình. Những nghiệp khác nhau đem lại những kết quả khác nhau, tùy thuộc
vào trạng thái tâm của ta lúc ấy.
Nghiệp tái sinh rất quan trọng và cần được hiểu rõ, vì nó có
tác dụng quyết định cảnh giới tái sinh của ta. Đây là loại nghiệp hoạt động rất mạnh trong giây phút cuối cùng của sự sống.
Trong giây phút lâm chung, có bốn loại nghiệp có thể
khởi lên:
Thứ
nhất là trọng nghiệp, có thể là nghiệp thiện hay nghiệp ác. Trọng nghiệp thuộc
về ác có năm thứ, được
gọi là ngũ
nghịch đại tội. Đó là: giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, chia rẽ Tăng chúng và
gây thương tích cho đức Phật. Chỉ một trong năm tội này có khả năng vượt trên
mọi hành động trong quá khứ và quyết định việc tái sinh. Chúng
chắc chắn sẽ tạo quả trước nhất nên gọi là trọng nghiệp.
Những trọng nghiệp thuộc về thiện là kết quả của việc tu tập đạt được trạng thái
thiền định và duy trì cho đến khi lâm chung. Kết quả
của nghiệp này là được tái sinh vào cảnh giới của chư
thiên.
Trọng nghiệp bao giờ cũng giữ một địa vị ưu thế hơn mọi loại
nghiệp khác. Những trọng nghiệp khác thuộc về thiện là
kết quả của những giai đoạn giác ngộ khác nhau. Chúng không quyết định chắc chắn cảnh giới tái sinh của ta, nhưng
điều chắc chắn là sẽ giúp đi lên những cảnh giới tốt đẹp hơn.
Chúng ngăn chặn sự tái sinh vào những thế giới thấp kém.
Những loại nghiệp không có một trọng nghiệp nào để làm điều kiện tái sinh thì
được gọi là cận tử nghiệp, tức là nghiệp tạo bởi những hành vi
cuối cùng trước khi lâm chung. Nói một cách khác hơn, trong giờ phút lâm
chung, nếu ta chợt nhớ đến những việc làm thiện, hay có ai nhắc nhở ta về
những việc làm thiện, hoặc là ngay trước khi lâm chung ta làm một điều gì tốt,
chúng sẽ trở thành nghiệp quyết định sự tái sinh.
Vào thời đức Phật, có một tên sát nhân sắp sửa bị treo cổ, lúc ấy hắn chợt nhớ
lại trong đời có một lần hắn đã dâng đồ ăn cho ngài riputra (Xá-lợi-phất), một
đại đệ tử của đức Phật. Tư tưởng cuối cùng của anh ta trước khi chết là về sự cúng dường này. Mặc dù trong suốt cuộc đời, anh ta đã làm biết bao điều tội lỗi,
nhưng kết quả của tư tưởng lành cuối cùng đó đã giúp anh được tái sinh lên cõi
trời.
Cận tử nghiệp cũng có tác dụng ngược lại. Nhưng chúng
ta đừng nghĩ rằng những nghiệp thiện, ác khác tích lũy từ trước sẽ không
theo
ta. Điều này chỉ có nghĩa là cận tử nghiệp chiếm phần ưu tiên
kết quả, có thể quyết định sự tái sinh của ta.
Nhưng thường thì trong giờ phút lâm chung
tâm ta rất dễ tán loạn, sợ hãi, nên tập trung tâm mình để nghĩ về một việc thiện
đã làm không phải là chuyện dễ làm.
Nếu không có cận tử nghiệp, thì thường nghiệp sẽ hiện diện.
Thường nghiệp là nghiệp tạo bởi những hành động thường xuyên lặp đi, lặp lại,
hay những thói quen. Nghiệp này sẽ xuất hiện trong giờ phút lâm
chung. Nếu có một người nào thường tạo nhiều nghiệp sát sinh, những tư
tưởng ấy sẽ xuất hiện trong giây phút cuối, đó là kết quả của thường nghiệp. Nếu
người thường làm nhiều việc thiện, bố thí rộng rãi, hay nhiều lần tu tập ngồi
thiền, thì trong giờ phút cuối cùng sẽ nhớ lại những hành động ấy, hoặc thấy lại
hình ảnh đang ngồi thiền trên tọa cụ. Điều đó sẽ trở thành nghiệp quyết định sự tái sinh vào đời sống kế tiếp.
Nếu không có trọng nghiệp, không có cận tử nghiệp, cũng không
có một thường nghiệp nổi bật nào, thì nghiệp tích trữ sẽ xuất hiện để hướng dẫn sự tái sinh.
Nếu cuộc đời chúng ta là một chuỗi dài vô tận của những hành
vi
thiện, ác lẫn lộn, thì bất cứ hành động nào trong quá khứ cũng có thể khởi lên
trong phút lâm chung.
Có thể ví dụ sự hoạt động của những nghiệp này bằng hình ảnh
một đàn bò nhốt chung trong một chuồng. Buổi sáng
khi mở cửa, con bò ra đầu tiên sẽ là một con bò khỏe mạnh nhất. Nó
chen lấn với những con khác để được ra trước. Nếu không
có con bò nào là khỏe nhất, thì con ra trước nhất có thể là một con bò đứng cạnh
cửa chuồng. Nó chỉ cần nhẹ nhàng lách mình đi ra.
Nếu như cũng không có con bò nào đứng gần cửa chuồng, thì con
bò ra trước nhất sẽ là con bò có thói quen hướng dẫn những con khác. Và
nếu như chẳng có con bò nào có thói quen đó, thì bất cứ con bò nào trong đàn
cũng đều có thể chen ra trước. Nghiệp lực hoạt động
tương tự như thế vào giây phút cuối cùng của đời sống: trọng nghiệp, cận tử
nghiệp, thường nghiệp và tích trữ nghiệp.
Có một yếu tố để giữ cho ta lúc nào cũng tiến về sự thanh nhẹ, hạnh phúc và an lạc, đó là chánh
niệm. Chánh niệm có ảnh hưởng đến kết quả của trọng
nghiệp, vì yếu tố giác ngộ.
Chánh niệm cũng có ảnh hưởng đến kết quả ở cận tử nghiệp.
Nếu chúng ta có ý thức một cách sâu sắc, thì dù trong giờ phút
lâm chung tâm ta vẫn được quân bình và không bị chi phối bởi những sự bất thiện.
Chánh niệm cũng là thường nghiệp. Nếu chúng ta thực tập
mỗi ngày một cách chuyên cần, chánh niệm sẽ tự động khởi lên trong giây phút lâm
chung. Ý thức chánh niệm mà chúng ta đang tu tập ở đây
là một năng lực vô cùng quan trọng. Chính nó sẽ là yếu tố quyết định loại
nghiệp nào hoạt động vào phút lâm chung.
Hỏi: Những sinh linh ở các cõi thấp hơn chúng ta có tạo nghiệp không? Thí dụ như
một con chó có thể tạo nghiệp vì sự hiền lành, dễ thương hay hung dữ, bạo động
của nó không?
Đáp: Chúng sinh nào cũng tạo nghiệp cả, loài thú cũng vậy. Bạn có thể thấy những
con vật rất dữ tợn. Bạn có thể thấy được sự sợ hãi, giận dữ, thù ghét ở chúng.
Cũng có những con vật rất đẹp, dễ thương, thoải mái. Tất cả
đều tùy thuộc vào phẩm chất của tâm.
Hỏi: Có nghiệp chung cho một gia đình không?
Đáp: Có một loại nghiệp chung
được gọi là cộng nghiệp. Thí dụ như một quốc gia theo
một chính sách nào đó, sẽ tạo nên một cộng nghiệp cho quốc gia ấy.
Chúng ta chịu chung một nghiệp với những người khác nếu chúng ta chấp nhận hành
động của họ. Nếu chúng ta có tư tưởng chấp nhận việc làm của một người nào, thì
cộng nghiệp sẽ phát sinh. Bạn có thể thấy rõ điều này
vào thời chiến tranh. Những ai ủng hộ cuộc chiến sẽ
phải cùng nhau chia sẻ nghiệp ấy.
Còn những người không chấp nhận, sẽ tránh khỏi việc chịu chung
cộng nghiệp đó. Khi còn ở Ấn Độ, tôi có quen một người bạn đến từ Hòa Lan. Anh ta kể lại chuyện của gia đình anh
trong Thế chiến thứ hai.
Anh nói rằng, không hiểu vì sao gia đình anh lúc nào cũng có đầy đủ thực phẩm,
mặc dù cả nước đang trong tình trạng khủng hoảng, thiếu thốn thực phẩm, nhưng
đây đó vẫn có một số người không phải chịu chung một hoàn cảnh đó. Bạn có thể
thấy được ảnh hưởng của công nghiệp trên những người không tham dự hay ủng hộ
đường lối bất thiện của một quốc gia, một tổ chức; họ không chịu chung một số mệnh. Và những người tán thành
các hành động, chính sách nhân đạo sẽ huân tập được những thiện nghiệp về sau.
Hỏi: Có nhiều danh từ và thí dụ của ông đưa ra làm tôi hơi bối rối.
Đáp: Hãy gác qua một bên những thí dụ. Hãy đi thẳng vào vấn đề để tự trải nghiệm thế nào là chánh niệm.
Khi có một tư tưởng khởi lên, bạn có hai sự chọn lựa:
hoặc là tư tưởng khởi lên rồi bạn hoàn toàn bị nó lôi cuốn
theo, không còn ý thức được mình đang nghĩ gì, hoặc là có sự hiện diện của chánh niệm và ý thức được rằng có một tiến trình tư tưởng đang
hoạt động. Mỗi khi có chánh niệm, tư tưởng hay bất cứ đề mục quán niệm nào cũng
đều đến rồi đi, nếu có ý thức một
cách rõ ràng, tâm ta sẽ giữ được sự quân bình
sau đó.
Những danh từ, chữ nghĩa mà tôi đã dùng, có người lãnh hội
được, cũng có người không hiểu. Điều đó không quan
trọng. Hãy chọn những danh từ, ý niệm nào giúp bạn làm sáng tỏ được vấn
đề, còn lại thì cứ bỏ hết. Chỉ có kinh nghiệm được những gì
đang xảy ra mới là quan trọng, chứ không phải sự mê muội chấp nhận những gì người khác nói.
Trí tuệ phát xuất từ một nội tâm thinh lặng chứ không phải qua những lời phân
tích, bàn luận.
Hỏi: Nhưng rất nhiều khi người ta ăn một cái bánh vì vẻ ngoài, vì màu sắc của nó.
Đáp: Cứ chọn những vẻ ngoài, những màu sắc nào hấp dẫn bạn. Nhưng nhớ là phải
ăn cái bánh! Có một giáo sư đại học
ra biển trên chiếc tàu nhỏ.
Một hôm, ông hỏi người thủy thủ già: “Ông có biết gì về Đại dương học không?” Người thủy thủ già nói rằng ông ta thậm chí chẳng hiểu danh từ đó có
nghĩa là gì. Giáo sư nói: “Ông đã bỏ phí mất một phần tư cuộc đời vì sống
trên biển mà lại không biết gì về Đại dương học.” Sau đó, vị giáo sư lại hỏi:
“Thế ông có biết gì về Khí tượng học không?” Một lần nữa, người thủy thủ già đáp rằng ông chưa từng nghe qua danh
từ đó. Giáo sư chép miệng than rằng: “Thật đáng tiếc!
Vậy là ông đã bỏ phí cả một nửa cuộc đời rồi!”
Lát sau, giáo sư lại hỏi: “Ông có biết gì về Thiên văn học không?” Người thủy
thủ già đáp: “Tôi không biết gì cả.” Vị giáo sư tỏ vẻ thương cảm: “Thật tội
nghiệp! Ông đi biển cả đời, rất cần những vì sao để định phương hướng, nhưng
ông lại không biết gì về Thiên văn học cả. Vậy là ông
đã bỏ phí mất ba phần tư cuộc đời mình rồi!”
Không lâu sau đó, người thủy thủ già vội vã tìm gặp giáo sư và hỏi: “Giáo sư,
ông có biết bơi không?” Vị giáo sư lắc đầu: “Không, tôi không biết.
Tôi chưa học bơi bao giờ.” Người thủy thủ già lắc đầu ái ngại: “Ồ, như
vậy thật tội nghiệp cho giáo sư! Tàu chúng ta đang chìm.
Vậy là giáo sư đã bỏ phí cả cuộc đời mình rồi!”
Hãy nhớ, chỉ có môn bơi lội mới thật sự là quan
trọng!
Nguyễn Duy Nhiên biên dịch
(xem tiếp)