Cách vài dặm về phía tây bờ sông Nile ở Louqsor, một dãy đồi màu
nâu sậm tách khỏi nền trời, ngăn cách vùng thung lũng phì nhiêu với vùng sa mạc Lybie. Dãy đồi này che khuất một
truông núi khô khan dưới ánh nắng như thiêu
đốt của mặt trời, không một ngọn cỏ mọc, toàn là đá tảng và cát nóng.
Không một sinh vật nào sống tại đó, chỉ trừ các loài rắn rết và bò cạp.
Đó là vùng nghĩa địa chôn xác chết của thành Thèbes thuở xưa,
ngày nay đã mất
tích. Nhiều xác ướp hãy còn nguyên vẹn đã được
bốc ra khỏi những hầm hố tối tăm và đem trưng bày trước mắt công chúng tại những
viện bảo tàng lớn bên Âu Mỹ. Tôi đang sưu tầm khảo cứu về nhiều vấn đề trong
những ngôi lăng tẩm và những ngôi đền lộ thiên ở cách thung lũng này chừng vài
dặm, và trong những dấu vết còn sót lại của thành Thèbes cổ xưa vừa mới được đào
xới lên khỏi mặt đất ở ven miền sa mạc phía tây.
Để thực hiện những chuyến đi thám hiểm đó từ Louqsor, không có phương tiện di
chuyển nào tốt hơn là một con lừa, vì giống lừa có một bước đi vững chắc, biết
tìm đường vạch lối đi xuyên qua những tảng đá lởm chởm, tránh những đá sỏi bén
nhọn và những bờ vực thẳm.
Đó là những cuộc du hành lý thú, do đó tôi có dịp thỏa mãn
sự khao khát hiểu biết, tìm tòi những tài liệu cổ về những pháp môn bí truyền và
những hoài bão tâm linh của thành Thèbes cổ xưa nay đã bị chôn
vùi dưới mặt đất. Tôi cũng đã ghi
nhận những dấu vết huyền linh còn sót lại trong bầu không khí của vài ngôi mộ cổ,
hãy còn chưa xóa mờ cái ảnh hưởng của sự suy tàn và kiệt quệ tâm linh đã làm cho dòng dõi của một dân tộc kiêu hùng
và cao cả của thời xưa rơi vào bàn tay ô uế của những kẻ thực hành khoa bàng môn
tả đạo.
Trong một chuyến du hành thám hiểm đó, tôi
đã
gặp
một bậc dị nhân và có dịp đàm đạo với ngài. Trước hết, tôi đã do dự
không muốn tường thuật lại câu chuyện trao đổi giữa chúng tôi, bởi vì tôi không
thể kiểm chứng bằng những cuộc sưu tầm riêng những điều mà ngài đã tuyên bố, và bởi vì những điều ấy có thể làm
cho cái thế hệ hoài nghi của chúng ta ngạc nhiên, hoặc đem bậc dị nhân ấy ra làm
một đề tài giễu cợt, và lẽ tất nhiên là có cả tôi vì tôi đã cho rằng những chuyện hoang đường như thế có thể đem tường thuật lại cho quí độc
giả.
Tuy nhiên, tôi đã cân nhắc đắn đo hơn thiệt, và tôi thấy cần
phải thuật lại.
Hơn nữa, đó là ý muốn của bậc dị nhân ấy.
Ngài muốn tôi công bố điều mà hình như ngài cho là quan trọng đối với thế hệ hiện
tại.
Tôi đã
sưu tầm trong những ngôi mộ cổ trên thung lũng từ sáng sớm đến quá trưa.
Để trở về nhà nhanh hơn, tôi đi theo
con đường tắt vượt qua các ngọn đồi và tránh con đường vòng quanh xa lắc dưới
đồi. Lên đến đỉnh đồi, tôi bước xuống đất để cho con lừa nghỉ
mệt một lúc vì nó đã thở hổn hển.
Thừa dịp đó, tôi ngắm nhìn phong cảnh hùng vĩ ngoạn mục ở xa xa, trải ra đến tận chân trời.
Đỉnh ngọn đồi này cao hơn tất cả các ngọn đồi khác, và ngự trị khắp vùng đồng
bằng ở chung quanh. Màu cát vàng của
sa mạc tương phản rõ rệt với màu xanh tươi của đồng ruộng đã được
tưới nước. Một sự yên tĩnh lạ thường bao trùm khắp cả và thấm
nhuần vào người tôi với một nguồn cảm hứng tâm linh dồi dào.
Người ta có thể cảm thông với thiên nhiên một cách tuyệt diệu không đâu hơn ở
chỗ này.
Bốn bề hoàn toàn im lặng, tôi cảm thấy hình
như
tôi
đã cắt đứt mọi sợi dây liên lạc với thế giới bên ngoài.
Tôi vừa quay lại và đi vài bước thì chính lúc đó tôi nhìn thấy một người lạ mặt.
Người ngồi xếp bằng hai chân tréo trên một tảng đá mà người đã cẩn thận trải lên đó một mảnh vải lót.
Đầu bịt khăn trắng, hai bên mép tai để lộ mái tóc đen
huyền có điểm bạc.
Người ngồi yên bất động, và dường như đắm chìm trong sự chiêm ngưỡng cảnh vật
thiên nhiên dưới tận chân đồi. Tác người hơi nhỏ, với
đôi bàn chân nhỏ, người mặc một chiếc áo xám đen rộng, dưới cằm có một chòm râu
ngắn.
Người có vẻ trạc độ tứ tuần. Tôi
không nhìn thấy đôi mắt người trước khi người quay mặt về phía tôi.
Khi tầm nhãn quang của người phóng về cặp mắt tôi, tôi cảm thấy một cách khó tả
rằng tôi đang đứng trước một người phi thường.
Sự gặp gỡ này chắc chắn là sẽ in sâu mãi vào ký ức tôi.
Trên gương mặt đặc biệt ấy, trước hết đôi mắt đã làm cho
tôi bị lôi cuốn một cách lạ lùng. Đó là một đôi mắt lớn, hình bầu dục cân
đối hoàn toàn, đẹp và trong sáng. Tròng trắng tinh anh tương
phản rõ rệt với tròng đen như huyền
làm cho đôi mắt có một nét thâm trầm thoát tục.
Chúng tôi im lặng nhìn nhau trọn hai phút đồng hồ.
Cái phong độ oai nghi và trang trọng trên nét mặt của người này làm cho tôi cảm
thấy rằng tôi nên giữ lễ mà không mở lời trước.
Tiếc thay, tôi không thể nhớ những gì người đã nói trước tiên, vì trí óc của tôi hình
như bị bao phủ trong một lớp sương mờ trước khi người bắt đầu cất tiếng.
Một bộ phận bí mật nào thình lình hoạt động trong người tôi,
khiến cho tôi nhìn thấy một linh ảnh đặc biệt. Tôi thấy quay tít trước
mắt tôi một cái luân xa chiếu ánh sáng rạng ngời, những sự trói buộc của thể xác
hình như tách rời
khỏi nơi tôi và tôi đã rơi vào một trạng thái tâm thức siêu việt,
phi phàm. Khi cái linh ảnh đó chấm dứt, thì người lạ mặt đang
nói chuyện với tôi. Tôi định tĩnh tinh thần thì mới hiểu rằng lúc ấy tôi
vẫn đang đứng đó, trên đỉnh ngọn đồi cao nhất vùng Thèbes và một cảnh tượng
hoang vắng cô liêu đang diễn ra trước mắt và ở chung quanh tôi.
Tôi bèn cất tiếng chào người lạ mặt bằng thổ ngữ Ả Rập. Người
đáp lại bằng tiếng Anh với một giọng rất đúng. Nếu lúc ấy tôi nhắm mắt
lại, có lẽ tôi đã tưởng đó là giọng nói của một người Anh tốt
nghiệp đại học Oxford hay Cambridge chứ không thể là của một người phương Đông
mặc áo rộng!
Trước khi tôi định nói câu gì đó để vào đề thì như bị thúc đẩy bởi một sức mạnh bên trong, tôi
cất tiếng nói:
– Thưa ngài, tôi chắc ngài đã biết rằng tôi vừa trải qua một kinh nghiệm
khác thường khi tôi vừa đứng đây, ở bên cạnh ngài.
Và tôi bèn diễn tả cái linh ảnh lạ lùng khi nãy. Người
lạ nhìn tôi một cách mơ màng, rồi hơi nghiêng đầu và nói một cách thản nhiên:
– Phải, tôi hiểu.
Tôi nói tiếp:
– Tôi rất thụ cảm đối với những ảnh hưởng huyền linh, vì điều ấy đến với tôi
trong khi tôi được tiếp xúc với ngài, nên nó làm cho tôi tin rằng ngài có những
quyền năng lạ lùng.
Đôi mắt của người ấy lại nhìn tôi một cách chăm chú.
Sau một lúc ngài nói:
– Chính tôi
đã cố ý gây cho ông cái kinh nghiệm đó. Tôi muốn rằng nó đem cho ông một thông điệp không lời.
Thật đúng như vậy.
– Ngài muốn nói chi?
– Tôi muốn cho ông nhận ra cái pháp vị của tôi trước đã.
Thật đúng như tôi đã nghĩ. Tôi đã nhận
thấy nơi người lạ mặt này tất cả những ấn chứng rõ rệt về cái quả vị cao cả của
một đạo gia siêu thoát. Dầu cho tôi không có cái kinh nghiệm lạ lùng vừa rồi, chỉ cần nhìn
vào đôi mắt của người cũng đủ cho cái cảm tưởng của tôi được xác nhận bằng trực
giác. Đôi mắt huy hoàng cao cả ấy bắt buộc người ta phải chú ý và khâm
phục. Đôi mắt lớn, sáng ngời phóng những tia
nhìn mạnh mẽ oai nghiêm, và khi người nhìn tôi, thì đôi mắt ấy đứng yên một chỗ
rất lâu.
Khi tôi nói chuyện với người, tôi cảm thấy đôi mắt ấy vừa có
cái quyền năng soi thấu mọi sự vừa có mãnh lực thôi miên.
Đôi mắt ấy thấu suốt và ngự trị linh hồn tôi.
Đôi mắt ấy vạch trần những điều bí ẩn trong tâm hồn tôi và làm cho tôi trở nên
thụ động trước mãnh lực của chúng. Tôi nói:
– Thật là một diễm phúc bất ngờ cho tôi, người duy nhất mà tôi được gặp ở nơi thanh vắng này lại là một đấng cao cả
ở quả vị của ngài.
Người lạ mặt đáp:
– Thật vậy sao? Riêng tôi, tôi không ngạc nhiên.
Thời giờ đã điểm
cho cuộc
gặp
gỡ
của chúng ta hôm nay, giữa ông và tôi. Không phải là do sự tình cờ
mà ông vừa nói chuyện với tôi. Tôi nói cho ông biết, một nhân duyên thích hợp hơn là sự ngẫu nhiên
tình cờ đã dẫn đến cuộc gặp gỡ của chúng ta.
Tôi lắng nghe mà trong lòng hồi hộp trông chờ những gì sẽ đến.
Những tư tưởng trong đầu tôi xáo trộn. Tôi đã phải làm một cố gắng để tự trấn tĩnh và nắm
vững tình hình.
Tâm hồn tôi lúc ấy thấm nhuần một sự tôn kính tự nhiên đối với
một người có trình độ tâm linh cao cả như thế.
Khi ấy, người lạ mới nói cho tôi biết bằng cách nào định mệnh con người khiến
cho người nọ gặp gỡ người kia trên bước đường đời dưới sự thúc
đẩy của những mãnh lực vô hình, bằng cách nào những sự trùng hợp ngẫu nhiên bề
ngoài thật ra là kết quả sự diễn biến của một sợi dây nhân duyên nối liền nhiều
khoen đã kết hợp nhau từ trước và có tác dụng gây nên
những kết quả nhất định.
Người ấy còn nói với tôi nhiều điều khác nữa, và thản nhiên đề
cập đến mình, người tự giới thiệu một cách khách quan và không chút tự hào rằng
người là một vị chân sư. Người nói:
– Đó là danh từ mà tôi thích dùng hơn mọi danh từ khác, nó thích hợp với người
xưa, kể cả người cổ Ai Cập, và nó cũng thích hợp với tôi. Ngày
xưa, một chân sư được mọi người biết và quả vị của người được thế gian nhìn nhận.
Ngày nay, người ta không biết đến nữa, và sự hiện diện của người là một đề tài
gây nên những sự châm biếm mỉa mai. Nhưng
bánh xe tiến hóa vẫn quay luôn, thế kỷ này phải nhìn nhận rằng luật tiến hóa tâm
linh vẫn hoạt động không ngừng, và không khỏi tạo nên những người có thể hoạt
động tự do trong thể chất tâm linh tuy họ vẫn mang thể xác phàm.
Tôi cảm thấy người lạ nói có lý.
Đúng vậy, quả thật đó là một trong những bậc siêu nhân mà truyền thống Đông
phương vẫn thường nói đến, một trong những vị chân sư
đã từng tham dự trong đại đoàn Chưởng giáo và biết rõ những điều huyền
diệu của cảnh giới tâm linh mà người trần gian không hề được biết.
Thay vì để cho bị phiền nhiễu bởi thế gian ô trược, các ngài âm thầm hoạt động
trong vòng im lặng và bí mật.
Khi nào thấy cần tiếp xúc với người đời, các ngài thường dùng
các đệ tử làm trung gian. Những vị này đôi khi cũng
phải chịu đựng sự chỉ trích cùng tiếng thị phi của kẻ phàm phu tục tử.
Vị chân sư này cho biết rằng người có thể trao đổi tư tưởng với những vị chân sư
khác tùy theo ý muốn và dầu ở cách xa bao nhiêu trong
không gian. Người nói thêm rằng, một vị chân sư có thể tạm thời sử dụng thể xác
của một người khác, thường là thể xác của một vị đệ tử, bằng một phương pháp gọi
là nhập xác, nghĩa là linh hồn vị chân sư nhập vào thể xác của đệ tử, vị này sẵn
sàng hiến dâng thể xác mình một cách thụ động. Chân sư nói với một nụ cười nhỏ
nhẹ:
– Tôi đến đợi ông ở đây. Ông là văn sĩ, mà tôi thì có một
thông điệp để nhắn nhủ với người đời. Ông sẽ ghi chép thông điệp ấy do
tôi nói cho ông viết, vì đó là việc quan trọng. Cuộc gặp gỡ của chúng
ta hôm nay chỉ là phần đầu thôi đấy, ông Paul Brunton.
Tôi thụt lùi lại vì ngạc nhiên. Làm sao ngài biết được tên tôi? Thật đúng là các chân sư có quyền năng đọc được tư tưởng người khác
dầu rằng ở cách rất xa. Tôi mạo muội hỏi ngài:
– Tôi có thể được biết quí danh của ngài chăng?
Chân sư im lặng một lúc và nhìn phong cảnh ở đằng xa.
Tôi nhìn gương mặt cao quí của ngài và đợi câu trả lời. Sau cùng ngài nói:
– Được, nhưng chỉ để ông biết riêng mà thôi, chứ không
phải để ông viết vào trong sách. Tôi không muốn tiết lộ tên
thật của tôi. Ông hãy gọi tôi là Ramak-Hotep.
Đó là một tên Ai Cập thời cổ và tôi ngờ rằng các nhà Ai Cập
học hiện đại có thể hiểu rõ ý nghĩa của nó. Theo tôi nó
có nghĩa là “bình an”. Xứ Ai Cập không phải là quê
hương của tôi. Hiện nay, quê hương của tôi là toàn thể thế giới.
Tôi đã từng
châu du khắp cả năm châu bốn bể. Tôi chỉ mang cái thể xác của một người phương Đông, còn về tinh thần
thì tôi không tùy thuộc một xứ nào nhất định. Tâm hồn tôi thuộc về sự
bình an!
Ngài nói khá nhanh với một giọng hùng hồn mạnh mẽ, nhưng rõ
ràng là ngài hoàn toàn tự chủ lấy những xúc cảm của mình. Trong khoảng trên một
tiếng đồng hồ, chúng tôi nói chuyện về các vấn đề tâm linh, ngồi trên đỉnh đồi
dưới ánh nắng mặt trời nóng gay gắt, nhưng tôi không thấy khó chịu vì chân sư và câu
chuyện của ngài chiếm trọn cả tâm hồn tôi. Ngài nói về những
vấn đề liên quan đến thế giới bên ngoài và những vấn đề khác chỉ có liên hệ đến
một mình tôi. Ngài đưa cho tôi những chỉ dẫn rõ ràng, và dạy tôi những
pháp môn đặc biệt về sự tu luyện cá nhân để đạt tới một trình độ tâm linh và
giác ngộ cao hơn trình độ của tôi hiện giờ. Ngài nói một cách
thành thật, và thậm chí cũng nghiêm khắc chỉ trích những sự lầm lạc cá nhân đã gây một
vài chướng ngại trên bước đường tu tập của tôi.
Sau cùng, ngài hẹn gặp lại tôi vào ngày hôm sau, gần một nơi thánh
điện trên bờ sông Nile, trong đền thờ Louqsor. Kế đó,
vẫn không rời khỏi chỗ ngồi trên tảng đá, ngài từ biệt tôi và lấy làm hối tiếc
rằng ngài không thể kéo dài
cuộc
đàm luận với tôi vì ngài đang rất bận rộn và có nhiều việc phải làm trong
lúc ấy.
Tôi lấy làm tiếc mà phải đứng dậy ra về và tạm biệt chân sư,
vì cuộc đàm đạo
với ngài thật vô cùng thú vị và hấp dẫn.
Nó có phong vị gây nguồn cảm hứng và nâng cao tâm hồn.
Đường đi xuống chân đồi dốc đứng và trơn trợt, tôi phải đi bộ xuyên qua những
tảng đá lớn, một tay tôi cầm dây cương dắt con lừa.
Xuống đồng bằng, tôi liền cưỡi lên lưng lừa và quay lại một lần cuối để nhìn đên
đỉnh đồi hùng vĩ. Chân sư Ramak-Hotep
vẫn chưa đứng vậy ra về mà vẫn ngồi yên trên đỉnh đồi hoang vắng. Ngài có thể làm gì ở đó, tuy “rất bận rộn”
nhưng vẫn ngồi yên như pho tượng? Ngài sẽ còn ngồi ở đó chăng, khi màn đêm rơi xuống bao phủ lấy trọn
dãy đồi Lybie?
Nguyễn Hữu Kiệt dịch