Như đã hẹn, cuộc gặp gỡ lần
thứ hai giữa chúng tôi diễn ra trong cảnh hoang tàn của đền Louqsor. Tôi ngồi trên một tảng đá dài có khắc đầy ám tự
bên cạnh chân sư, ngài cũng ngồi xếp bằng hai chân và nhìn tôi.
Quyển sổ tay của tôi đã mở sẵn, tôi cầm bút ngồi đợi,
sẵn sàng ghi chép thông điệp của chân sư bằng phương pháp tốc ký.
Chân sư Ramak-Hotep không phí thời giờ với những lời khách sáo rườm rà, ngài vào
đề một cách đột ngột:
– Những người khai quật các mồ mả của xứ cổ Ai Cập đã giải tỏa những sức mạnh
nguy hiểm cho thế gian. Những nhà khảo cổ cũng như những kẻ
đào mồ để cướp của, đã vô tình khai quật mồ mả của những kẻ ngày xưa thực hành
khoa tả đạo bàng môn. Trong thời kỳ cuối cùng của lịch sử Ai Cập, những
người thuộc thành phần trí thức và tăng lữ đã sa đọa rất nhiều, người ta thực hành công khai những tà thuật
ma giáo và pháp môn phù thủy. Khi ánh sáng chân lý, đầu tiên được phổ biến trong
nền tôn giáo chân chính cổ Ai Cập, bắt đầu lu mờ, và những tà thuyết dị đoan
ngày càng lộng hành, người ta thấy xuất hiện việc tẩm xác ướp với tất cả những
nghi lễ phiền toái kèm theo. Tuy nhiên, phía sau những tà giáo đã bày ra sự thực
hành việc tẩm xác người với những mục đích ám muội, đen tối và tà vạy, còn có
một chi phái chủ trương việc ướp xác để duy trì một sự liên lạc lâu bền với cõi
hồng trần.
Lúc ban đầu thì khoa ướp xác này chỉ áp dụng cho những vị thánh vương của hoàng
kim thời đại, của thời kỳ tiền sử Ai Cập và cho những vị đạo trưởng đã tiến hóa
cao về phương diện tâm linh, là những bậc thầy chân chính của nhân gian, để cho
thể xác đã thấm nhuần thần lực thiêng liêng của các ngài vẫn còn tồn tại lâu bền
và làm phương tiện trung gian ban rải ân phước cho thế gian. Từ đó mới nảy sinh
ra sự thờ phụng tổ tiên, những thi hài được tẩm ướp chất
thơm chỉ là để theo một nghi lễ chánh thức nhằm mục
đích để cho con cháu biết mặt những tổ tiên đã qua đời.
Thật ra đó là sự bắt chước sai lạc cách thực hành khoa ướp xác thời cổ Ai Cập để
giữ gìn những di tích thánh thiện của các vị thánh vương và tăng lữ chân
tu. Vì trong thời gian tàn tạ suy vong trở về sau, khi xứ này đã mất đi
nguồn ánh sáng tâm linh chân chính, và người ta dùng tà thuật để kêu gọi những
sức mạnh hắc ám của cõi âm ty, những người trí thức trong giới tăng lữ và giai
cấp cầm quyền chỉ định rằng người ta phải ướp xác của họ sau khi chết. Người ta
thực hành việc ướp xác này, hoặc vì mục đích dùng tà thuật hắc ám, hoặc vì sợ
mất linh hồn trong cõi địa ngục mà họ sẽ bước vào sau khi chết, hoặc vì
ngu dốt chỉ biết làm theo tập tục của số đông.
Trong hầu hết mọi trường hợp, trước khi chết mỗi người đều lo
sắp đặt mọi việc và đã chuẩn bị sẵn ngôi mộ của mình từ khi còn sống. Khi
đã sắp đặt xong thì đương sự hoặc một vị tăng lữ thông thạo khoa pháp môn mới
kêu gọi một âm binh hay quỉ thần, có khi là một vị thần tốt lành nhưng thường
thì là thần hung ác, để bảo vệ trông nom cái xác ướp của y và làm thần canh gác
giữ mồ. Để bảo vệ những xác ướp đó, lúc đầu những ngôi mộ được
che giấu một cách kỹ lưỡng và sau đó người ta tuyên bố với công chúng rằng người
nào động chạm đến các mồ mả sẽ bị các thần linh trừng phạt một cách nặng nề kinh
khủng. Dân chúng tin theo lời cảnh cáo đó và
những mồ mả được tôn trọng suốt một thời gian rất lâu.
Nhưng vì các tăng lữ và giới cầm quyền càng ngày càng sa
đọa nhiều hơn nên dân chúng lần lần không còn tin tưởng như trước nữa. Từ đó
việc khai quật mồ mả diễn ra một cách công khai để cướp lấy vàng ngọc châu báu
thường được chôn theo
những xác ướp của những nhân vật quyền quí thời xưa. Trong
trường hợp xác ướp là của một người có ít nhiều hiểu biết về khoa pháp môn hoặc
đặt dưới sự trông nom của các nhà phù thủy, thì những vị thần linh được kêu gọi
để giữ gìn mồ mả và trừng phạt những kẻ đào mồ. Những phù phép bí mật đó thường là vô cùng nguy hiểm nhưng rất hiệu
nghiệm. Những mãnh lực thần bí của nó vẫn có trong những ngôi mộ khép chặt
và có thể tiếp tục tồn tại ở trong đó suốt nhiều ngàn năm.
Bởi vậy những nhà khảo cổ vô tình khai quật những mồ mả đó sẽ chuốc lấy những
điều tai họa hiểm nghèo.
Nhưng nếu cơ nguy đó chỉ hăm dọa sự
an toàn tính mạng của các nhà khảo cổ và gia đình họ mà
thôi thì điều mà tôi muốn nói đây không có gì quan trọng lắm. Trái lại, vấn đề
này có liên hệ đến sự an
toàn của toàn thể thế giới. Đó là vì trong số những ngôi mộ của các nhân vật
quyền quí và tăng lữ mà người ta khai quật lên, có những mồ mả được đặt dưới sự
giữ gìn và bảo vệ nói trên. Từ trong các ngôi mộ đó, hằng hà
sa số những âm binh ác quỷ bị giam hãm trong ấy từ lâu, bèn kéo ra tràn
đầy khắp nơi ở cõi thế gian. Mỗi xác ướp được bốc ra và chở về những viện bảo
tàng bên Âu Mỹ có mang theo những vị thần linh cùng với
cái ảnh hưởng khốc hại của nó. Điều đó chỉ có thể đem đến cho thế giới những hậu
quả tai
hại, hậu quả với những tính chất khác nhau, thậm chí có thể gây một ảnh hưởng
phá hoại đối với vận mệnh các quốc gia.
Những người Tây phương vì không có phương pháp tự vệ chống lại
nên đành chịu bất lực trước những kẻ vô hình đó.
Khi thế giới chúng ta hiểu rằng có nhiều thần linh hung ác bị nhốt trong những
ngôi mộ cổ, thì chừng đó có thể đã là quá trễ. Vì lúc đó tất cả các mồ mả đều đã
bị khai quật và những hung thần ác quỉ đã thoát ra khỏi mồ.
Chúng có thể gây nhiều điều ác hại cho thế gian, và ngoài ra
chúng còn gây nên những vụ phản bội trên lãnh vực quốc tế. Sự mù quáng
của con người đối với những luật thiên nhiên không vì thế mà không đem sự đau
khổ cho những kẻ vi phạm. Không biết gì về những mãnh lực khốc hại của khoa pháp
môn phù thủy không phải là một lý do để tránh cho thế kỷ này khỏi bị cái hậu quả
trừng phạt dành cho những kẻ đột nhập vào những chốn thâm nghiêm, một hành động
tò mò không cần thiết chút nào cho họ.
Những hung thần ác quỉ đó, được tạo nên bằng phương pháp phù thủy, đã được giải
tỏa trong thế kỷ hiện tại một số khá đông đủ để gây nên sự khủng hoảng cho thế
giới. Chúng hành động từ cảnh giới vô hình, nhưng cũng rất gần
với cõi thế gian, đủ để ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người trần gian.
Chúng tôi là những người luôn quan tâm đến sự tiến hóa tâm linh của nhân loại,
có thể triệt hạ những mãnh lực hắc ám đó trên địa hạt của chúng, nhưng luật nhân
quả ngăn cản chúng tôi tiêu diệt chúng, cũng như chúng tôi không thể ra tay giết
bỏ những người trong nhân loại dù biết là họ đang gây hại rất nhiều cho kẻ khác.
Chúng tôi chỉ có thể giới hạn sự can thiệp trong việc che chở cho những người
tốt lành.
Những vật gì mà người ta lấy ra từ trong các ngôi mộ cổ cùng
với những xác ướp, vàng ngọc, bùa chú, y phục... đều có thấm nhuần cái ảnh hưởng
thần bí của ngôi mộ. Nếu ảnh hưởng đó không phải do người ta đã dùng phù
phép trấn ếm quỉ thần thì việc khai quật mồ mả không có hậu quả gì, còn nếu ngôi
mộ có thần linh gìn giữ thì việc đào mồ cướp của sẽ gây nên
tai họa hiểm nghèo. Những nhà khảo cổ và Ai Cập học trái lại, thường
không biết rõ điều đó và không biết phân biệt những ngôi mộ nào là có phù phép
trấn ếm và ngôi mộ nào là không, nên họ khai quật luôn cả thứ nọ cũng như thứ
kia.
Nhưng dù người ta có biết hay không, tôi cũng muốn đưa ra cho thế giới một thông
điệp này: “Chớ nên động chạm đến các ngôi mộ cổ mà người ta không hiểu được tính
chất hiển linh huyền bí của nó.” Người đời phải dừng
tay lại ngay, không nên khai quật các mồ mả cho đến khi
nào họ có được sự hiểu biết đầy đủ để nhận định được những hậu quả khốc hại của
điều mà họ muốn làm.
Phần nhiều các vị vua chúa Ai Cập đều có ít nhiều quyền phép,
với những ý đồ tốt hoặc xấu, vì họ được các vị tăng lữ pháp sư truyền dạy. Lúc đầu, người ta chỉ dùng những phép thuật ấy để tự vệ hoặc để trừ
gian và bênh vực kẻ yếu, nhưng khi xứ Ai Cập đã mất đi những lý tưởng cao thượng
của nó, thì người ta bắt đầu lạm dụng những pháp thuật này. Chẳng hạn, nhà phù thủy dùng tà thuật để ám hại kẻ thù ở cách xa,
hoặc chế ngự, khuất phục người khác để thực hiện những tham vọng cá nhân của
mình. Người ta cũng dùng những pháp thuật đó để sai khiến âm binh canh gác
và giữ mồ.
Việc khai quật những ngôi mộ cổ Ai Cập có thể đặt kẻ vi
phạm dưới ảnh hưởng khốc hại của những mãnh lực huyền bí vô hình. Dẫu cho đó là
ngôi mộ của một vị hiền minh và có pháp thuật cao cường, thì thế gian cũng có
thể bị ảnh hưởng lây và chịu sự trừng phạt đau khổ vì đã làm động mồ mả của một
đấng thánh nhân.
Tuy nhiên, những đồ bảo vật bị lấy trộm ở ngôi mộ đó sẽ không gây hậu quả tai hại, mà trái lại sẽ có một ảnh hưởng tốt lành. Nhưng nếu
người sở hữu bảo vật ấy có một tâm địa bất hảo, thì họ sẽ không thừa hưởng được
một ân huệ tốt lành nào cả, mà ân huệ này chỉ dành cho
những người hiền lương và có tâm địa thanh cao. Đó là do ảnh hưởng tâm linh
trường cửu lâu bền của một vị vua đạo đức có một tâm hồn cao quí hồi thuở sinh
tiền.
Vua Toutankhamon là một trường hợp tiêu biểu cho những vị vua
đó. Người có một sự hiểu biết thâm sâu về khoa huyền
môn và một tâm hồn đạo đức. Sự khai quật ngôi mộ của vị vua này đã gây tai họa cho những người đào mồ và theo một cách khó hiểu, cho
cả thế giới bên ngoài. Trong những năm tới đây, thế giới còn phải đau khổ nhiều
và phải chịu hậu quả những sự xúc phạm mồ mả của những bậc tiền nhân thời cổ Ai
Cập.
Tuy nhiên, những sự khó khăn về vật chất sẽ đưa đến một sự lợi ích về tinh thần.
Bởi đó, tôi lặp lại, những người muốn tìm kho tàng ẩn giấu, hoặc do sự thúc đẩy
của một sự tò mò quá đáng hơn là một tinh thần khảo cứu khoa học thật sự, mà
muốn thám hiểm vào tận những nơi cổ kính có phù phép trấn ếm linh thiêng, sẽ
không tránh khỏi tai họa hiểm nghèo. Nhưng ngày nào mà người ta còn được phép
đến gần để viếng thăm hay chiêm ngưỡng những ngôi mộ đó, thì những kẻ nào làm
kinh động đến mồ mả sẽ mắc phải những tai họa khôn lường.
Hồi thời thượng cổ, trung tâm chánh yếu của khoa pháp môn phù thủy vẫn là Ai Cập.
Ngày nay, những sức mạnh thần bí đã được phát động trong quá khứ vẫn còn có ảnh
hưởng đến dân tộc và xứ sở Ai Cập, và hậu quả có khi lành khi dữ. Hậu quả đó có
thể là những bệnh tật, chẳng hạn như bệnh ung nhọt lở loét, một hậu quả của
những mãnh lực phù phép tà vạy luôn luôn gây tác động trong xứ và ảnh hưởng đến
những người dân Ai Cập thời bấy giờ.
Vậy ông hãy ghi chép và truyền bá những lời cảnh cáo này.
Bây giờ ông đã hiểu lý do của sự gặp gỡ giữa chúng ta. Dẫu cho chúng ta có bị sự
chống đối, khinh bị do sự dốt nát vô minh của người đời, ta cũng làm xong bổn
phận mình, bổn phận của tôi, và nếu ông muốn, đó sẽ là bổn phận của ông.
Định luật thiên nhiên vốn không tha thứ sự vô minh, dốt nát, nhưng trong vấn đề
này, thậm chí đến cái lý lẽ đó người ta cũng không được viện ra để tự bào chữa
cho mình.
Thông điệp của chân sư Ramak-Hotep đã chấm dứt.
Tôi đã ghi chép lại đúng y nguyên văn và trình bày nơi quyển sách này.
Nguyễn Hữu Kiệt dịch