Cư sĩ Nguyên Giác
Có một chút khác nhau giữa cách nói “ăn
cơm Phật” và “ăn cơm nhà Phật.” Đó là giữa một mô tả về cơm,
và một chỉ định về nơi chốn của cơm này. Nhưng cũng có
thể nghĩ rằng sẽ không có dị biệt nào, nếu cùng hiểu rằng chữ Phật có nghĩa là
“trí tuệ tỉnh thức.” Đức Phật, để nói ngắn gọn, là
người đã tỉnh thức.
Có một câu ca dao Việt Nam thường
nghe, trong đó nói về tâm thức của người ăn cơm Phật. Tác phẩm “Ca Dao Tục Ngữ
Phật Giáo Việt Nam” do Thầy Lệ Như Thích Trung Hậu sưu tập, nơi câu thứ 25, có
ghi:
“Ăn
cơm Phật lật đật cả ngày,
Ăn cơm nhà bay thẳng tay mà ngủ.”
Hai hình
ảnh khác nhau nổi bật.
Hễ đã ăn cơm Phật, là bận rộn làm việc liên tục, không
mệt mỏi. Hiểu là, ăn cơm Phật, là đã “tỉnh thức trí tuệ,” thì không lười biếng
nổi được nữa, nghĩa là lúc nào cũng thấy có việc phải làm, và do cơ duyên lúc
nào cũng gặp việc phải làm. Lúc đó, có muốn lười biếng, cũng
không lười biếng nổi.
SVHVPP, ảnh chùa Hoằng pháp
Còn “ăn cơm nhà bay,” theo nghĩa đối
nghịch với câu trên, có nghĩa là “ăn cơm chúng sinh,” nên hiểu là “cơm của cõi
chưa tỉnh thức,” là vẫn còn u mê mờ mịt, lúc nào cũng tự mãn và vui chơi ăn ngủ.
Nếu hiểu là ăn cơm nhà chùa, và ăn cơm ngoài đời thì lại nghĩa khác.
Nhưng nơi đây không có ý như thế. Kiểu như một câu thường nghe, “ăn
mày cửa Phật,” là cụ thể nói chuyện đời. Nhưng khi nói “ăn cơm Phật,” tất cả các
nghĩa ngoài đời đều biến dạng, mà chỉ còn có nghĩa là “pháp hỷ, thiền duyệt,”
nơi đó chỉ có niềm vui của người đã tỉnh thức.
Tuy nhiên,
phải khéo léo. Bởi vì, chữ “lật đật” trong tiếng Việt có thể làm chệch ra ngoài ý
nghĩa của trung dung, trung đạo. Tuy là làm việc gì cũng có thể làm khẩn
cấp, nhanh nhẹn – ngay cả khi viết bài, dịch bài, chạy, bơi, múa võ, đánh quyền...
– lúc nào tâm cũng cần giữ nơi lặng lẽ và tỉnh thức. Bởi vì ngay khi để
tâm niệm chạy theo quán tính, lúc đó đã không còn là
“ăn cơm Phật” nữa. Lúc đó là “ăn cơm nhà bay,” là cơm số nhiều, là “ăn cơm chúng
sinh,” là niệm niệm sinh diệt dẫn theo kiếp kiếp sinh diệt.
Không giữ
được trung dung, là các cõi chúng sinh lôi kéo liền. Nhưng hễ đi chệch hướng, nghĩa là
“ăn cơm nhà bay,” nghĩa là khởi tâm chúng sinh, thì lúc đó dù có ngồi thiền
quanh năm, dù tụng kinh ngàn biến, dù niệm Phật trọn đời... cũng vẫn gọi là kiểu
“thẳng tay mà ngủ,” kiểu không tu gì hết, bởi vì tu trật hướng, có nghĩa là
phóng dật vậy.
Kinh Pháp Cú, bài kệ 21, do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch, viết:
“Không phóng dật, đường sống,
Phóng dật
là đường chết.
Không phóng dật, không chết,
Phóng dật
như chết rồi.”
Câu đầu
tiên trong bài kệ trên, tiếng Pali là “Appamado amatapadam.”
Tác phẩm “The Dhammapada: Verses and
Stories” (Kinh Pháp Cú: Kệ và Truyện Tích) bản dịch Anh ngữ bởi Daw Mya Tin,
giải thích:
“Bài kệ 21: Tỉnh thức là đường tới
Bất Tử (Niết Bàn); không tỉnh thức là đường tới sự chết. Những người tỉnh thức
sẽ không chết; người không tỉnh thức là kể như đã chết
rồi.” (Verse 21: Mindfulness is the way to the Deathless (Nibbana);
unmindfulness is the way to Death. Those who are mindful do not die; those who
are not mindful are as if already dead.)
Trang này còn giải thích về ngữ căn
“appamada,” rằng, “Theo Bản Chú Giải, chữ này mang toàn bộ ý nghĩa các lời Phật
dạy trong Ba Tạng Kinh, và do vậy chữ appamada được dịch như luôn luôn tỉnh thức
khi làm việc công đức...” (appamada: According to the
Commentary, it embraces all the meanings of the words of the Buddha in the
Tipitaka, and therefore appamada is to be interpreted as being ever mindful in
doing meritorious deeds...)
Như thế,
“không phóng dật” có nghĩa là “tỉnh thức không ngừng nghỉ.” Như thế, dù có ngày đêm sáu thời tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền...
mà tâm không tỉnh thức, cũng có nghĩa là tâm đã phóng dật. Làm sao có thể tỉnh thức không ngừng nghỉ?
Làm sao có thể lúc nào cũng thọ dụng cơm Phật? Có thể nói một cách khác,
rằng đừng bao giờ thọ dụng cơm chúng sinh, rằng đừng bao giờ để khởi lên một
niệm tham, niệm sân, niệm si nào...
Tác phẩm “Tích Truyện Pháp Cú,” do
Thiền Viện Viên Chiếu dịch từ cuốn “Buddhist Legends” của Eugène Watson
Burlingame, có nói về bài kệ này, trích:
“ II. Phẩm Không Phóng Dật
Thời Phật
Ca-diếp, có cô con gái viên chưởng khố ở Ba-la-nại, một hôm khi bóng chiều đổ
xuống, lấy gương ra soi và trang điểm. Một ni cô bạn thân của cô, người đã
dứt hết dục lạc, đến thăm. (Thường những ni
cô đã dứt hết dục lạc, hay đến thăm gia chủ ủng hộ mình vào xế chiều). Lúc đó
các nàng hầu của cô vắng mặt nên cô bảo vị ni lấy giùm
giỏ trang điểm. Nếu không làm theo ý cô, có thể cô nổi
sân và như thế sẽ tái sanh vào địa ngục, nhưng nếu nghe lời cô sai bảo thì cô sẽ
làm người hầu ở kiếp sau. Làm người hầu dù sao cũng không khổ bằng ở địa ngục,
nên vị ni lấy giỏ trang điểm đưa cho cô. Do đó cô trở
thành nàng hầu.” (hết trích)
Truyện vừa kể cho thấy, chỉ một chút
sơ ý thôi, vì có hành vi thiếu tôn kính với một vị ni
đã dứt dục lạc, cô con quan phải tái sinh làm nàng hầu. Chỉ
một khoảnh khắc thiếu tỉnh thức, thiếu cảnh giác canh giữ ba nghiệp... thế là lỡ
cả một kiếp luân lạc.
Tuy nhiên,
như thế không có nghĩa là để tâm căng thẳng. Chữ “lật đật” có
thể làm hiểu nhầm như thế. Bởi vì đã “ăn
cơm trí tuệ” là sẽ biết điều hợp tâm mình “không phóng dật” liên tục, nghĩa là
niệm niệm tỉnh thức liên tục. Không phảỉ gấp gáp, không phải
lè phè.
Trong kinh “Appamada Sutta:
Heedfulness” (Kinh Tỉnh Thức) từ Samyutta Nikaya (Tương Ưng Bộ Kinh), bản dịch
từ Pali sang Anh văn của Thầy Thanissaro Bhikkhu, trên mạng
http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn03/sn03.017.than.html,
có ghi lời Đức Phật nói tại thành Savatthi, với Vua
Pasenadi Kosala, rằng có một phầm chất làm lợi đời này và nhiều đời sau, đó là,
trích dịch:
“Tỉnh thức,
thưa đại vương. Y hệt như dấu chân của tất cả các loài có chân có thể được
bao phủ bởi dấu chân của một con voi, và dấu chân voi được tuyên xưng là vô
thượng vì kích thước lớn; cũng như thế, tỉnh thức là một phẩm chất bảo đảm lợi
ích cả hai phương diện -- lợi ích trong kiếp này, và lợi ích trong nhiều kiếp
sau.”
Như thế, “lật đật cả ngày” chỉ có
nghĩa là liên tục ngày đêm sẽ không để một niệm chúng sinh nào sinh khởi, nghĩa
là sẽ cắt hết mọi nhân duyên để không cho bất kỳ một hạt gạo nào trở thành một
hạt cơm nhà bay...
Nghĩa là,
ngày đêm sống với cơm Phật, cơm của trí tuệ, cơm của tỉnh thức.
Tới đây,
chúng ta cần có một cảnh giác. Đó là, động từ “ăn” cho hiểu là đưa
thêm cái gì vào. Nghĩa là, “ăn cơm Phật” hiểu là “đưa cơm Phật vào.”
Thực sự không phải như nghĩa đó. Mà nên hiểu, cơm Phật
đã có sẵn trong tâm rồi.
Nếu có pháp nào ngoàì tâm, thì đó là ngoại đạo.
Vấn đề chỉ là: cơm đã chín chưa?
Nghĩa là, gạo, củi, lửa... mọi thứ đã có sẵn, chỉ còn chờ dọn cơm Phật ra để thọ
dụng.
Thiền Sư
Liễu Quán (1667 - 1742) sau nhiều năm tham học với Thiền Sư Tử Dung ở Huế, tới
khi trình kiến giải, “Sớm biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi,” bấy giờ mới
được khen ngợi là đã hiểu đạo.
Đèn là
lửa... sóng là nước... niệm niệm đều từ một tâm. Nhưng biết tu pháp tỉnh thức, thì là cơm Phật; chệch đi một chút, sẽ
là cơm chúng sinh.
Trên đường
tu, cũng cần phải tỉnh thức ngay trên pháp tỉnh thức.
Bởi vì vô số cảnh giới sẽ trùng trùng hiện ra trong tâm, và
chỉ khởi một tâm chúng sinh là sẽ hỏng, chỉ uổng công.
Đây chính là chỗ mà bài Bát Nhã Tâm Kinh sẽ giúp cho học nhân.
Nơi đây chính là “thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh,
bất tăng bất giảm...”
Có cơm Phật
cũng không phải là tăng, lìa cơm chúng sinh cũng không phảỉ là giảm. Nhìn lại trong tâm, thực sự là “không tướng,” vì từ nhỏ tới
già, chúng ta đã khởi lên vô lượng tâm, thấy vô lượng niệm hiện ra và biến
mất...
Cũng cần
cảnh giác, có một số vị tu thiền lại chấp vào cảnh giới an lạc, thanh tịnh. Thí dụ, khi ngồi thiền, thấy thân tâm mình an lạc, nên sinh
tâm ưa thích cảnh thanh tịnh, thoải mái; hay khi rửa chén, chú tâm vào thọ lạc
khi thấy nước ấm loang nơi bàn tay và ngửi mùi xà phòng thơm; hay khi nhai cơm,
chú tâm vào thọ lạc khi nghiền hạt cơm... vân vân. Nghĩa
là, “thấy quá phê” nhờ tập thiền.
Coi chừng,
ưa thích cảnh thanh tịnh, lúc đó tâm tham sẽ hiện ra.
Nhiều thập niên trước, một vị thiền sư ở Bình Dương đã từng dạy rằng, khi ngồi
thiền mà thấy mê cảnh thiền định, thì hãy bỏ oai nghi ngồi...
Ngược lại,
khi ghét cảnh bất tịnh, khi thấy cảnh không như ý mình, lại dễ dàng sinh khởi
tâm sân. Thế lại là hỏng.
Khi yêu cảnh này, sẽ bị niệm tham mai phục; khi ghét cảnh kia,
sẽ bị niệm sân mai phục. Cả yêu cùng ghét đều là bệnh cả.
Cho nên, trong khi tu học, nên giữ
tâm “bất cấu, bất tịnh” (không dơ, không sạch).
Hãy giữ tâm
lặng lẽ và tỉnh thức, rồi “không tướng” sẽ hiện ra.
Hãy để mặc cho vô lượng sóng niệm sinh khởi và biến dạng, rồi mặt hồ sẽ an tỉnh và ánh trăng sẽ hiện ra.
Cảnh giới
đó, ánh trăng đó, chính là “cơm Phật.” Tâm đó chính là “không tướng,” chính là tâm của “bất sanh
bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm...”
Bạn có thể tập được các bước đầu đơn
giản trong việc “ăn cơm Phật” này.
Không có gì phải lật đật; đó chỉ là một kiểu nói cách điệu thôi. Hãy khởi
sự thật đơn giản: hãy hít thở dịu dàng và tự nhiên, hãy để tâm cảm nhận hơi thở
vào và ra dịu dàng. Hãy tập như thế bất kỳ khi nào nhớ tới hơi
thở. Cả khi đi, đứng, nằm, ngồi.
Trong vài ngày thôi, bạn sẽ thấy khác liền. Và khi nào có dịp, hãy tìm đọc thêm, và tìm các vị thầy hướng dẫn.
Tại sao, có
cơm lại không chịu ăn? Huống gì, đây lại là cơm Phật...