Lam
Khê
Chùa có tên Diệu
Giác. Ngôi chùa Ni mà tôi có duyên hội ngộ trên Đất Nước Lào trong một chuyến
tham quan du lịch ngắn ngày.
Vừa buớc chân đến
Savanakhet- thành phố lớn thứ hai của Lào, chúng tôi được chú Phật tử người Huế
định cư tại đây ra đón rồi đưa về một ngôi chùa Ni trong thành phố. Theo lời vị
đạo hữu thì tỉnh Savanakhet có hai ngôi chùa do cộng đồng người Việt di cư tạo
lập từ những năm ba mươi của thế kỷ trước. Chùa Diệu Giác Ni và chùa Bảo Quang
Tăng. Những ngôi chùa Việt hiện diện trên Đất Nước Triệu Voi đều mang đậm dấu ấn
quê nhà. Mái chùa quê hương trở thành nơi hội tụ giao lưu để những người con
Phật gặp nhau trên khắp nẻo đường tha phương lập nghiệp.
ảnh:
Chùa Diệu Giác ở Savannakhet
Tam quan chùa hiện
ra trên một con đường rộng thoáng yên tịnh. Một ngôi chùa cổ kính bình dị như
bao ngôi chùa, nhưng khi bước vào, tôi có cảm giác như mình đang trở về với ngôi
chùa thân quen tại quê nhà. Cổng chùa cũng là màu vàng nền nã nhẹ nhàng mà thanh
thoát; bốn trụ cột cao cùng dãy tường rào lại phủ một màu xanh lam dịu mát
truyền thống. Trước sân có tượng đài Quan Âm lộ thiên. Trên cao, mái ngói đỏ
thẫm nổi bật dưới bóng chiều tà. Những hình rồng chạm khắc tinh tế uyển chuyển
hài hòa xoay quanh bốn hướng. Trên trụ cổng có bánh xe chuyển luân, có những búp
sen hồng dịu dàng vươn cao trong nắng ấm...
Ngôi chùa Ni với
một lối kiến trúc thuần Việt không hề nhầm lẫn với bất cứ ai. Mà đã nói đến tính
cách riêng của mỗi dân tộc thì đâu thể dùng phép so sánh với những ngôi chùa bản
xứ vốn rất tinh xảo sắc nét. Chùa Việt mang âm hưởng quê hương, hồn thiêng sông
núi... để lòng người xa xứ mãi vương vấn theo nhịp chuông tiếng mõ ngân vang
trong khuya sớm.
Sư cô Đàm Luân- trụ
trì chùa, là người Việt nhưng sanh trưởng tại Lào. Cha gốc Thanh Hóa, mẹ người
Hải Dương, họ di cư sang Lào từ thời kháng chiến chống Pháp. Sư cô từng có nhiều
năm tu học tại thủ đô Viêng Chăn trước khi về đảm nhận phật sự ngôi Tam Bảo này.
Vóc người dong dõng cao, tư chất nhanh nhẹn, giọng Bắc nhẹ nhàng truyền cảm.
Cung cách nói chuyện của Sư toát lên vẻ chơn chất đôn hậu mà lại tự nhiên dễ gần
gũi. Thế là chẳng mấy chốc, cuộc đàm đạo quanh bàn trà giữa những người có chung
màu áo và cùng ngôn ngữ đã trở nên thân tình cởi mở. Đêm đầu tiên nghỉ lại chùa,
lắng nghe tiếng mưa rơi nhẹ bên thềm và sự tĩnh lặng của đường phố, cảm giác như
mình vừa bước qua một thế giới tràn ngập những sắc màu yên vui tự tại.
Không gian chùa
Diệu Giác không rộng nhưng thoáng đãng và thật yên tịnh. Phòng khách treo nhiều
tranh lịch hình ảnh các ngôi chùa nổi tiếng xứ Huế. Kinh sách tiếng Việt chất
đầy trong tủ. Ngoại trừ tượng Phật Thích Ca là sản phẩm đặc thù của xứ sở
Chămpa, các tượng khác như Di Đà, Hộ Pháp, Ông Tiêu... cho đến chuông Gia trì,
Đại hồng chung, trống Bát nhã... đều là hàng Việt Nam chính hiệu. Thật thú vị
khi đọc những lời Phật dạy, những câu kinh Pháp cú, bảng nội quy, nghi thức tụng
niệm dán khắp tường đều bằng Việt ngữ. Hình ảnh và ngôn ngữ Việt tạo cho ngôi
chùa có một phong cách riêng đầy sắc thái.
Ngoài sư cô trụ
trì, chùa còn có ba vị Sa di Ni và một tín nữ. Họ đều lớn tuổi nhưng sự tu tập
hành trì thật tinh tấn miên mật. Buổi khuya sau thời công phu, quý vị còn ngồi
lại trên chánh điện niệm Phật cho tới sáng. Thời khóa tụng niệm khuya tối, quả
đường hai buổi sáng trưa đều theo nghi thức Đại thừa Bắc Tông. Không ăn chiều,
không đỏ lửa nên có nhiều thời gian tịnh tu quán niệm. Sau các thời tụng kinh
chấp tác, quý cô cùng ngồi học kinh trên nhà giảng hoặc mở băng đĩa nghe thuyết
pháp. Băng giảng của quý thầy từ Sài gòn và Huế gởi sang. Phật tử đến tụng kinh
lễ Phật vào các ngày rằm ngày lễ. Phật tử Lào thỉnh thoảng cũng có người tới
chùa lễ Phật và giao lưu học hỏi với quý Ni.
Ni Việt Nam tu tập
trên đất nước Lào không nhiều, nên việc thọ giới Tỳ Kheo Ni quả là
nan giải vì Lào không có giới đàn dành cho Ni. Ni Nam Tông chỉ thọ 5 giới, quấn
y trắng và không được lập chùa riêng. Một lần thầy Minh
Phát từ
Sài-gòn
qua, nhận thấy các Ni người Việt đã làm trụ trì nhưng vẫn
còn là Sa Di Ni, thầy liền gọi họ lại và nói: “Quý cô về lo may đủ ba y. Sang
năm thầy trở qua sẽ truyền giới cụ túc cho. Giới pháp đầy đủ thì con đường tu
tập hoằng đạo sẽ thuận lợi hơn”
Thế là năm sau
(1992) Thầy Minh Phát qua Lào dự lễ trai đàn chẩn tế tại chùa Bàng Long (chùa
Việt ở Viêng Chăng) cùng với quý Ôn và quý Sư bà. Có đủ hai bộ Đại Tăng, thầy
liền xin tổ chức Đại giới đàn, cho mời tất cả Ni Việt trên khắp nước Lào về chùa Bàng Long thọ đại giới. Đàn giới đặc biệt năm đó, sư cô Đàm
Luân cùng tám vị Ni đều được lãnh thọ giới phẩm Tỳ Kheo Ni.
Vào khoảng thập
niên sáu mươi- thế kỷ hai mươi, Hòa Thượng Nhật Liên- Trụ trì Tổ đình Tây Thiên-
Huế, trong thời gian du hóa sang Lào, ngài cho trùng tu lại chùa Bảo Quang và
chùa Diệu Giác với quy mô rộng lớn như hiện nay. Trên bàn Tổ chùa có thờ di ảnh
của Hòa Thượng. Từ mối nhân duyên đó, hai ngôi chùa Việt tại Savanakhet
luôn giữ mối giao hòa liên kết với Giáo hội Phật giáo Thừa Thiên- Huế. Ngoài lễ
Phật đản, An cư, Vu Lan và Tết cổ truyền (theo âm lịch Việt Nam) quý thầy ở Huế cũng thường qua thuyết pháp và chủ trì
các buổi lễ quy y, thọ bát quan trai, cúng trai đàn chẩn tế cho Phật tử người
Việt trong vùng. Quý Ni ở Huế qua Lào dự lễ hay đi du lịch đều tìm đến lưu trú
tại chùa Diệu Giác. Thỉnh thoảng Sư Đàm Luân lại về Huế. Sư bảo: “Chùa Huế như
một ngôi nhà lớn với nhiều bạn đạo thân tình. Lâu lâu có dịp là mình lại trở về
nhà thăm viếng mọi người và tham quan các cảnh chùa.” Quý thầy quý cô ở Huế đều quen biết và quý trọng sư.
Rồi cũng tới lúc
chúng tôi phải nói lời từ giã đất nước Lào hiền hòa tươi đẹp. Đường về qua ngõ tắt Campuchia rút ngắn mà dòng
cảm xúc cứ dài thêm ra. Bởi tôi biết... mình vừa mang thêm món nợ ân tình với
những người bạn đạo phương xa. Chút niềm tri ân chở theo suốt cuộc hành trình.
Năm tháng rồi sẽ phôi pha và những người con Phật sẽ lại gặp nhau nơi một chốn
về an nhiên tịnh lạc.