Hoàng tử Anuruddha
chính là Tôn giả A Nậu Lâu Đà,
trước khi xuất gia.
Phụ vương của hoàng tử là em
vua Tịnh Phạn, tức phụ vương của thái tử Tất Đạt Đa, vị thái tử
rời bỏ cung vàng điện
ngọc đi tìm đạo cả, rồi đắc đạo, được tôn xưng là Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni.
Cũng như hầu hết các vương tôn công tử
dòng dõi đế vương, hoàng tử Anuruddha được thương yêu, chiều chuộng, hưởng thụ mọi của ngon vật lạ thế gian, không hề
biết đến những gì là thiếu thốn, đau khổ trên đời.
Thuở ấu thơ, hoàng tử hay chơi trò đánh bạc
ăn bánh
với các vương tôn khác. Thua hay được, đều
trả bằng bánh. Hoàng tử
Anuruddha chắc không phải tay đánh
bài giỏi nên thường thua nhiều hơn thắng. Một lần, thua hết cả hộp bánh mang theo, hoàng tử bèn bảo
quân hầu, chạy về cung mẫu hậu, xin thêm bánh. Lần
đó, mẫu hậu cũng hết bánh, nên bảo quân
hầu là “Bánh không có!”.
Vì luôn muốn gì được
nấy, nên hoàng tử tưởng “bánh không có” là
tên một loại bánh, chứ không phải là không
có bánh! Lúc đó, đã
mắc nợ các vương tôn khác khá
nhiều nên hoàng tử dục quân hầu:
-
Thưa mẫu hậu là “bánh
không có” hay bánh gì cũng
được, đem
mau cho
ta!
Mẫu hậu
nghe thế, bèn sai thị
nữ lấy một cái khay
vàng, úp một cái bát
vàng lên, rồi bảo quân hầu:
- Đây, bánh
đây, hãy mang dâng hoàng
tử.
Khi hoàng tử Anuruddha mở cái khay
với cái bát không, úp
lên trên ra, thì …… ôi
thơm phức! Hoàng tử nếm thử thì …. ôi, ngon
tuyệt! Đây là chiếc bánh hoàng tử
chưa từng được ăn
bao giờ! “Bánh không có”
này ngon quá, vậy mà tới nay mẫu hậu mới cho ăn!
Mẫu hậu nghe
tin này thì vô cùng sửng
sốt vì chính mắt bà nhìn thị
nữ tuân lời, lấy cái khay không
và úp cái
bát không lên. Vậy
mà, khi
hoàng
tử mở ra, sao lại
là chiếc bánh thơm
ngon, chưa từng đầu bếp nào trong
hoàng cung làm được?
Mẫu hậu bỗng
mơ hồ cảm nhận rằng, đây là phước báu của hoàng
tử. Vị hoàng tử này sẽ nhận
nhiều ân
sủng hơn là những gì tột cùng
cao sang quyền quý mà hoàng
gia có
thể
ban cho.
Quả thế.
Không bao lâu,
tin thái tử Tất Đạt Đa xuất gia, rồi thành đạo, đã loan truyền khắp nơi.
Hoàng tử Anuruddha vô
cùng
xúc động, bèn bàn với
hoàng huynh của mình là, trong hai
anh em,
một
người cũng nên xuất gia để mang phước báu cho dòng
họ; còn người kia thì ở lại kế vị ngôi vương, chăn dắt thần dân cho tròn đạo
nghĩa mọi bề.
Dự tính này bị mẫu
hậu bác bỏ ngay, vì bà không
muốn phải rời xa một
người con nào cả! Nhưng nước mắt mẫu hậu không những không lay chuyển nổi ý chí của hoàng tử, mà ngày
lên đường, không chỉ hoàng tử Anuruddha, còn có hoàng từ
Ananda, các vương tôn Bhaddiya, Bhagu, Kimbila, Devadatta và người thợ hớt tóc của các
vương tôn là Upali, đều
bị hấp lực cực kỳ thánh thiện của hình ảnh sa-môn mời gọi, đã cùng nhau cất
bước đi tìm Đức Thế Tôn.
Câu chuyện
tới đây, tưởng chừng “chiếc bánh không có” đã
trở thành quá khứ! Nhưng lắng tâm quán chiếu, chúng ta có
thể thấy dường như chiếc bánh đó vẫn còn đây.
Chiếc bánh có tên là
“bánh không có” của Tôn
giả A Nậu Lâu Đà, một,
trong mười vị đại đệ tử được Đức
Thế Tôn tuyên xưng là vị tối
thắng thiên-nhãn-thông,
đã chỉ cho chúng ta
cách nếm hương vị của phước báu.
Không có dấu mốc nào làm chuẩn
để đo lường phước
báu, vì
ít
hay nhiều, nặng
hay nhẹ, do nhu cầu
và cảm nhận mỗi cá nhân. Người
thường không hài lòng với
thực phẩm mình có, sẽ
nhận biết thực phẩm ấy không tệ, khi thấy
kẻ đói khát; người buồn khổ vì không có
đôi giầy mới, chợt hạnh phúc khi thấy người cụt chân!
Hạnh phúc nó
tương đối
như thế.
Ai cũng có
phước báu, nếu ta biết
nhìn hạnh phúc bằng những gì mình đang có. Trong sáu
nẻo luân hồi thì được
làm thân người đã là phước báu rồi. Hạnh phúc có hay không,
nhiều
hay ít là do tâm ý ta, mỗi
khi mở khay “bánh
không
có”. Trên cái khay không đó, bao giờ cũng
có bánh. Chắc chắn thế. Vì tâm ý ta là
người đầu
bếp, vật liệu là những
gì quanh đời sống này. Vật liệu đó
luôn vô
cùng
đa dạng, có thể làm
được mọi
loại bánh, mọi mầu sắc, mọi hương vị. Chiếc bánh được hoàn thành thế nào, phẩm lượng ra sao là do tài
trí của người đầu bếp.
Tôn giả A Nậu
Lâu Đà là vị tối
thượng thiên-nhãn-thông,
tất ngài có thể nhìn
rõ cách
chúng
ta nấu nướng ra sao.
Xin hãy tạ
ơn những vật liệu quanh ta và
cùng nhau khéo léo hoàn
thành những “chiếc bánh không có”.
Huệ Trân
(Tào-Khê tịnh thất, mùa Tạ Ơn 2011)