Diệu Kim
Chân lý chỉ có một, nhưng mỗi người đến với chân lý bằng một con
đường khác nhau. Dù bằng con đường nào đi nữa
thì đó cũng là hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời khi may mắn tìm được giữa đêm
đen một ngọn đuốc soi đường. Con rùa mù gặp được bộng cây đã khó, nhưng người
sinh ra gặp được Phật pháp còn khó hơn. Muôn nghìn lần tri ân
Phật, tri ân thầy tổ, tri ân bạn bè đồng đạo, tri ân cả cuộc đời thăng trầm của
tôi, đã dắt dìu tôi đi qua những chặng đường dài.
Tôi sinh ra ở một vùng quê nghèo nhưng ruộng vườn xanh mướt,
thênh thang, dưỡng nuôi sự hồn nhiên và phóng khoáng.
Vùng quê ấy còn là mảnh đất Phật giáo, dưỡng nuôi chất thuần hậu, hiền lương của
người dân. Trong ký ức tuổi thơ tôi, rõ ràng như mới hôm qua, là bóng
chùa thấp thoáng sau tàn lá xanh xanh, là tiếng chuông ngân nga thanh thoát, là
hương của bông sen, bông trang ướp đẫm trời chiều. Những ngày rằm tôi theo ngoại
lên chùa, nghịch ngợm với những chú quy có chiếc mai màu vàng, cho chú ăn chuối
rồi lật ngửa chú lên, mặc cho chú huơ huơ bốn cái chân chậm chạp cầu cứu, sau đó
lật mình lại được rồi len lén bò đi, không hờn không dỗi. Bây giờ trở lại chùa
xưa, mấy chú quy đã theo hầu sư ông bên kia cõi Phật, chỉ còn lại ngọn tháp lặng
lẽ trong gió đồng bằng chở tình yêu về với hư không...
Phật giáo khởi đầu trong tôi như thế, vô tư, không ràng buộc giáo điều, không
mảy may suy nghĩ. Sư ông gởi cho tôi tờ phái quy y có ghi cái tên Diệu Kim lạ
hoắc, tôi bật cười cất nhanh vào tủ, rồi chẳng còn biết nó lưu lạc nơi đâu. Miền
quê nào chẳng vậy, quy y đến đó thì thôi, những đứa cùng tử như tôi cũng lưu lạc
như mảnh giấy kia giữa chợ đời nhộn nhạo.
Nhưng may cho tôi, cuộc đời đưa đẩy làm sao tôi lại về công tác tại thị xã Sa Đéc vào đúng giai đoạn Phật giáo tỉnh Đồng Tháp đang hồi
cực thịnh.
Tôi bước chân đến ngôi chùa Bửu Quang của Tỉnh Hội vào đúng
ngày Phật Đản và nghe được bài pháp đầu tiên trong đời.
Như có một luồng điện chạy qua người, tôi cảm nhận mình đang tắm trong một vầng
ánh sáng choáng ngợp. Cái cảm giác ấy không bao giờ trở lại
nữa sau này. Nhưng bù lại là những tháng ngày hạnh phúc
khi tôi được ngồi nghe thầy giảng, được cầm quyển sách lên chiêm nghiệm từng lời
Phật dạy.
Tôi học với nhiều thầy, những vị giảng sư của Đồng Tháp và các
tỉnh lân cận, chăm chú không dám bỏ lỡ từ bài học vỡ lòng dễ nhất. Như
con kiến kiên nhẫn nhặt từng hạt tấm nhỏ nhoi, tôi tranh thủ từng giờ phút nghỉ
ngơi giữa công việc bộn bề để đi học Pháp. Học được bao nhiêu vui bấy nhiêu,
giằng co với cơm áo gạo tiền, chứ không dám nghĩ mình sẽ theo
đuổi trọn vẹn. Lại càng không dám nghĩ mình sẽ có ngày làm được cái gì cho thầy,
cho Phật, để đáp đền ơn đức quá lớn lao
đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi trong những ngày bơ vơ, khốn khó...
Chớp mắt mà đã mười năm...
Mười năm tôi vẫn phải chạy theo
cái nghiệp đời mình đã trót gieo. Nhưng mười năm ấy khác hẳn những tháng ngày
trước kia. Tôi như có thêm tai, thêm mắt
để nhìn đời; bình tĩnh hơn trước những vô thường, nhân quả, và có sức mạnh hơn
để sống cùng muôn nghìn cái khổ...
Và tôi bắt đầu ước mơ thoát khỏi cái vòng quẩn quanh của "cái tôi" nhỏ bé, ước
mơ làm được điều gì đó cho những người chung quanh mình bằng một tấm lòng yêu
thương chân thực.
Tôi nhớ, hồi còn ngồi ghế nhà trường tôi đã đọc ở đâu đó một câu rằng: "Nếu
không làm được trăng sao chiếu sáng cả bầu trời, thì hãy làm một ngọn đèn nhỏ đủ
thắp sáng một căn phòng." Không ngờ câu ấy lại trở về với tôi. Và tôi mỉm cười bước vào
đời với hành trang là ngọn đèn nhỏ xíu trong tim.
Tôi đã chọn cho mình những việc làm rất nhỏ, trong tầm tay,
không ước mơ cao xa, huyễn hoặc. Một cuốn tập cho em bé học trò nghèo, một cái
áo cho cụ già neo đơn, một câu an ủi cô bạn thất tình... Rất nhiều thứ nhỏ nhoi như thế, góp phần xoa dịu những nỗi buồn, góp
phần mang lại những niềm vui. Nhiều người luôn nghĩ
rằng họ đang bất hạnh và không có gì để cho người khác. Nhưng tôi lại nghĩ, mình có quá nhiều hạnh phúc mà mình không biết.
Đừng nhìn mãi vào cái chưa có, hãy nhìn vào cái đã có, và cứ cho đi rồi sẽ thấy
mình "giàu" và hạnh phúc vô cùng. Thậm chí mình đâu đã nghèo
đến nỗi thiếu một nụ cười?
Và tôi đặc biệt quan tâm đến nông thôn, vùng sâu vùng xa, nơi
tôi đã từ đó ra đi.
Bởi vì đất nước ta nông thôn chiếm đa số, chính mảnh đất rộng
lớn ấy mới có nhiều việc cho chúng ta thực hiện.
Tôi thấy mình may mắn được học hành cũng như được tiếp cận kho tàng giáo lý
tuyệt vời của Đức Phật, thì mình càng phải thương những người dân quê thiếu thốn
điều kiện học tập.
Đừng nghĩ rằng người dân ở vùng "biên địa" cái nghiệp nặng lắm,
khó học pháp lắm. Tôi vốn là một nhà báo, có cơ hội đi
nhiều, tiếp xúc với nhiều đối tượng, tôi lại tin rằng họ hoàn toàn có thể tiến
bộ, không đến nỗi quá yếu kém như nhiều người vẫn thành kiến. Đành rằng ở nông thôn có những hạn chế nhất định, nhưng không phải
là hoàn toàn không thể cải thiện. Nếu chúng ta thực lòng yêu thương người
dân, thực lòng muốn giúp họ đến với ánh sáng Phật pháp, thì chúng ta sẽ tìm ra
con đường sáng tạo, và đặc biệt, chư Phật sẽ gia hộ cho chúng ta. Tôi tin ở sự cảm ứng này. Tôi tin ở Đức Phật, một lòng thành
kính hướng về Ngài, vì Ngài không bao giờ bỏ rơi những đứa con hết lòng vì cuộc
sống.
Trong nỗi ưu tư cũng như trong niềm tin ấy, tôi đã mạnh dạn
thử nghiệm những bước hoằng pháp đầu tiên cho nông thôn quê tôi.
Quả là không phụ lòng tin cậy của tôi, những bà con Phật tử, những em thiếu
nhi, đã có nỗ lực đáng khâm phục. Họ say mê học Pháp, họ trong sáng làm
theo lời Phật dạy. Bản chất thuần lương của họ lại
chính là ưu điểm mà người thành phố không sánh được. Nhìn những em thiếu
nhi thuộc làu làu những bài học về Tam quy, Ngũ giới,
Thập thiện nghiệp, Vô thường, Nhân quả, Tứ nhiếp pháp... tôi mừng muốn rơi nước
mắt. Tuổi thơ của tôi chỉ dừng lại ở tờ phái quy y, còn các em bây giờ đã vượt
xa hơn, có một kiến thức chân chánh để không rơi vào mê tín, để trở thành những
công dân tốt trong tương lai, biết làm điều thiện, biết cống hiến cho xã hội,
đem hạnh phúc đến cho người chung quanh.
Ngoài chuyện học Phật pháp, chúng tôi còn tổ chức cho các em những trò chơi,
sinh hoạt tập thể, ca hát, câu đố cây cỏ, câu đố lịch sử, địa lý v.v...
làm nên không khí vui tươi, lành mạnh và sinh động ở vùng nông thôn xa
xôi. Chúng ta đang giữ gìn lớp trẻ, chống lại móng vuốt khủng
khiếp của ma túy và các tệ nạn khác, thì Phật giáo có thể góp phần quan trọng
trong vấn đề này. Người Phật tử đi tìm cái "tĩnh" trong tâm hồn, đi tìm
sự giải thoát cao siêu nhưng cũng không xa rời cuộc sống, vẫn đồng hành với con
người trên đường thoát khổ, không thờ ơ trước những vấn đề bức xúc của xã hội. Chân đế là tuyệt đẹp và vĩnh hằng, nhưng Tục đế vẫn hiện diện trong
từng ngày ta đang sống. Mỗi người góp một bàn tay
tích cực dựng xây thì chính mảnh đất này sẽ là Cực lạc, có đâu xa!
Và tất cả những điều nhỏ bé đó tôi xin dâng lên Đức Phật, dù cảm thấy chưa đủ để
đáp đền ơn đức của Ngài đã cho tôi ngọn đuốc sáng, sáng cả cuộc đời.
Cũng chưa đủ để đền ơn thầy tổ đã cho tôi những giọt mưa Pháp mát lành.
Chợt thấy chạnh lòng, một kiếp người ta "nhận" biết bao nhiêu, nhận của Đức Phật,
của thầy, của cha, của mẹ, của anh em, bè bạn, đồng bào, của cả nhân loại và
chúng sanh... Vậy mà mình đã "cho" được bao nhiêu?