Ninh Giang Thu Cúc
PHIÊN BẢN
Ngày xưa tháng lương đầu con biếu mẹ
Gói trà thơm cùng hộp bánh trung thu
Mẹ mỉm cười mắt thoáng âm u
Mi chớp nhẹ tròng đoanh giọt đọng
Mẹ mãn nguyện bởi vẹn tròn ước vọng
Con lớn khôn xuân sắc mẹ phai tàn
Con lớn khôn giờ khắc của ly tan
Ôi quy luật ai dám nào vượt khỏi
Con đi xa mẹ bao chiều mòn mỏi
Bao đợi chờ trông tưởng dấu chân quen.
Nắng xuống chiều lên nhấp nhỏm sau rèm
Tóc xanh thắm mây trời pha trắng muốt
Mẹ một thuở ôm bao điều mơ ước
Con bây giờ khác trước chút nào đâu
Cũng nhớ thương ray rứt trắng canh thâu
Cũng đau đáu ôm niềm vui hội ngộ
Một phiên bản với bao điều vui khổ
Xưa làm con nay làm mẹ nhiệm mầu
Một nhịp cầu cho hai bến gần nhau
Bến hiếu đạo bờ yêu thương tuyệt mỹ.
MẸ
Nhọc nhằn bao quản tấm thân già
Sương gió tảo tần lạnh buốt da
Cơm áo một thời chân sấp ngửa
Sách đèn bao độ mãi bôn ba
Vinh quy bái tổ dâng công mẹ
Phổ hệ, đề danh trả nghĩa cha
Nợ nước ơn nhà ghi nhớ đủ
Sơn hà một dải rộng bao la.
¯¯¯
Sơn hà một dải rộng bao la
Tình mẹ cho con vẫn nhất mà
Con khổ - lòng đau như muối xát
Con vui – mắt mọng giọt hồng sa
Buồn ơi thao thức từng đêm vắng
Lạnh quá bơ vơ thiếu mẹ già
Con vẫn mồ côi dù bạc tóc
Từ ngày cưỡi hạc mẹ về xa.
SA TRƯỜNG NGỌA
Cha ngã xuống phương nao
Con đau đớn tự hào
Máu đào dâng Tổ quốc
Cha anh dũng xiết bao.
MẸ TỔ QUỐC
Đất nước tôi có bao nhiêu bà Mẹ
Tiễn con đi ào ạt bước quân hành
Chắp hai tay Mẹ nguyện giữa trời xanh
Cho các con
Chân cứng đá mềm bền tâm đánh giặc
Lũ cướp nước phải đầu hàng cúi mặt
Bỏ dã tâm xâm chiếm núi sông nầy.
Những bà Mẹ Việt Nam
Lam
lũ cù đày
Quang gánh sớm chiều đồng sâu ruộng cạn
Khó khổ trăm điều không lần than vãn
Xem con như báu vật quý vô ngần.
Thế nhưng
Khi Tổ quốc cần
Là cống hiến
Không phân vân ái ngại
Đã có bao đứa con
Ra đi là mãi mãi
Quyết tử một lần
Cho Tổ quốc quang vinh
Mẹ hy sinh
Bao giọt máu thâm tình
Để chiều xuống
Lắng thinh niềm cô quạnh
Và tự hỏi – nhiều lần – ta bất hạnh
Không,không,không – Mẹ hạnh phúc trăm lần
Bởi Mẹ
Là điểm tựa của các anh hùng
Đứng lồng lộng
Giữa trời mây bất tử.
TỔ QUỐC ƠI !
Con úp mặt nghe niềm đau trở giấc
Ngày cha đi con mới tuổi lên hai
Vệ quốc quân niềm vinh dự đời trai
Cờ kháng Pháp cha giương cao lẫm liệt
Triệu triệu tấm lòng con dân đất Việt
Tự ngìn xưa chẳng chịu cúi lòn ai
Lê – Lý – Trần biết bao bậc trí tài
Đã vùng dậy đánh tan loài cướp nước
Thế hệ cha lại oai hùng tiếp bước
Chẳng mềm lòng vướng bận nợ thê noa
Họa xâm lăng đang đe dọa muôn nhà
Xếp nghiên bút giã nhà ra chiến trận
Mẹ chinh phụ với tháng ngày lận đận
Ôm con thơ đau đáu đợi tin chồng
Khách chinh phu vẫn muôn dặm ruổi dong
Đường thiên lý dấn mình vào gió cát
Đâu còn giặc là đó vang tiếng hát
Quyết bảo tồn sông núi chết không lui
Đêm hằng đêm đối bóng mẹ ngậm ngùi
Thương con trẻ thiếu tay cha chăm sóc
Thay phụ thân nuôi dạy con ăn học
Đợi chồng về với khúc khải hoàn ca
Cho đến khi thống nhất nước non nhà
Mẹ mới biết lâu rồi – mình hóa đá.
ĐẤT NƯỚC TRONG TÔI
Phương ngôn bảo
Con gái về làng
Như Thành Hoàng về miễu
Tiền hô hậu ứng kẻ đón
người chào
Có mái nhà có giếng nước
cầu ao
Đang chờ đợi người xưa
về soi bóng
Có cha mẹ chờ con chiều
lóng ngóng
Có em thơ trông chị để
đòi qùa
Còn tôi ư
Kẻ cùng tử không nhà
Về cố thổ như lạc vào
nẻo lạ
Hai cuộc chiến
Trận địa nào cha đã ngã
Mẹ một đời hoài
vọng - bỗng hư vô
Chiến thắng cô đơn – cám
dỗ - xô bồ
Vọng phu mãi
Cho đến giờ nhắm mắt
Cha có biết
Suốt đời con cúi mặt
Thấy nhà ai
Đoàn tụ vợ chồng con
Lầm lũi bước đi – côi
cút, héo hon
Nhưng lòng mãi tự hào
CỜ TỔ QUỐC THẮM THÊM BỞI MÁU CHA ĐÃ ĐỔ.
(Viết lúc bị xã Hương Long cưỡng chế lấy nhà năm 1984)
ƠN THIỀN TỪ HIẾU
(Kính dâng Giác Linh Bổn sư
Cố Đại lão Hòa Thượng Thích Thanh
Quý)
Hoàng mai vương vãi lối đi
Thiền môn rộng đón chim di trú về
Xa xăm vạn nẻo sơn khê
Hồn quê là nỗi lê thê canh dài
Về đây quỳ dưới Phật đài
Lời kinh vang vọng hôm mai nhắc đời
Ngày con bé dại thầy ơi
Tháng ngày gần gũi nhận lời dạy khuyên
Nhận tình thương, nhận thiện duyên
Tuổi thơ hạnh phúc vô biên bên thầy
Thầy đi vắng bóng từ ngày
Tháng hai mồng chín trời mây u sầu
Thầy đi từ cõi bể dâu
Về miền cực lạc thiên thâu nhẹ nhàng
Con về cảnh cũ lang thang
Sáng chiều thương nhớ vương mang u hoài
Ngẩng đầu chiêm ngưỡng tượng đài
Pháp thân ngời sáng dáng gầy hôm nao
Mắt thầy như một VÌ SAO
Trong ngần không gợn lao xao bụi trần…
Canh tàn Từ Hiếu chuông ngân
Nhắn ai cuối nẻo hồng trần gắng tu.
Mồng 9 tháng 2 năm Mậu Thân 1968
NGÀY VỀ
(Kính tặng Thầy Thích Chí Mậu)
Lặng lẽ về đây chốn cội
nguồn
Lòng con xúc động lệ
trào tuôn
Thân thương ngưỡng vọng
ngôi chùa cũ
Thành kính dâng lên nén
tâm hương
Quỳ dưới chân Tam Bảo
Đê đầu cảm tạ hồng ân
Hơn một lần
Vì biệt nghiệp phải quay
lưng
Kẻ cùng tử hôm nay tìm
về tổ ấm
Cửa thiền môn rộng mở
đón mừng con
Niềm hân hoan
Con bật khóc no tròn
Giọt nước mắt
Mừng vui giờ hội ngộ
Cha cưỡi hạc
Vân du miền đất tổ
Con trở về
Cảnh cũ vắng người xưa
Con cả cha chung
Nên gặp gỡ chẳng bất ngờ
Tình huynh muội cho con
niềm xúc động
Con bơi lội trong đạo
tình cao rộng
Trong tia nhìn từ ái của sư huynh
Anh thay cha
Phụng sự tổ đình
Trên ấm dưới êm cháu con
sum họp
Niềm hạnh phúc đã làm
con choáng ngợp
Xin cúi đầu
Cảm tạ ơn trên.
Từ Hiếu mùa xuân 1982
(Ngày về hầu kỵ bổn sư
mồng 8 tháng 2 âm lịch)
VỌNG BÁI
(Kính dâng Giác Linh Hòa thượng
Thích Chí Mậu)
Người đi non nước Hương Bình
Bâng khuâng tưởng niệm bóng hình cao tăng
Hương lòng vọng bái…tiễn
đưa
Thầy về xứ Phật, Huế mưa
điệu buồn
Nhớ thời gai góc đồi
truông
Cửa “Từ…” gồng gánh ngọn
nguồn cam go
Tang điền kén lép tơ co
Trụ thân… định lực chăm
lo phụng thờ
Người đi đẹp một trời
thơ
Bước qua hệ lụy đến bờ
tịch nhiên
Bụi trần rũ sạch trược phiền
Anh linh du hóa về miền
an vui
Môn đồ pháp quyến ngậm
ngùi
Lời kinh siêu độ
thơm mùi pháp âm
Thiền sàng ấm đọng hương
trầm
Thiền Đường vắng bóng âm
thầm tiếc thương
Thiền hành quạnh nẻo
tinh sương
Hoàng y “nhẹ gót chân
thường” dung uy
Dáng Sư Tử hống oai nghi
Nụ cười Di Lặc từ bi độ
đời…
Con về nguồn cội Tổ
đường
Lặng nhìn di ảnh buồn
vương lệ nhòa
Vọng về ký ức ngày xa
Một thời ấm cúng, một
nhà đoàn viên
Bên thầy bên pháp hữu
hiền
Tâm linh huyết thống
thiêng liêng đạo tình
Vô thường đùa cợt tử
sinh
Tây Phương quảy gánh vân trình nhẹ tênh.
Ngày 17 tháng 6 năm Kỷ Sửu 2009
ANH ĐI SAO?(!)
(Kính viếng anh linh nhà thơ Việt
Trang
Phạm Gia Triếp)
Anh về thiên cổ rồi sao?
Đâu lời hứa hẹn lúc nào lên thăm
Địa dư cách trở xa xăm
Thân em đang bệnh nằm chong đèn buồn
Thương anh trời đất giọt tuôn
Xôn xao biển sóng ngọn nguồn quê hương
Đồng tông tộc nghĩa vấn vương
Lời anh còn đó, nghĩ -
thương quặn lòng
Anh đi nhẹ bước thong dong
Bến bờ cực lạc đang mong đón Người
Gia đình đau xót khôn nguôi
Anh em bầu bạn chín muồi xót xa
Tiễn anh nâng chén quan hà
Khấu đầu hai lạy giọt sa… đẫm lòng…
11h 13/6 Canh Dần
(24/7/2010)
DÒNG SÔNG QUÊ MẸ
Mùi thạch xương bồ của dòng sông đất tổ
Ươm tẩm con từ thuở tuồi nằm nôi
Đến lớn khôn xuôi ngược vạn sông đời
Vẫn đau đáu vọng dòng sông quê mẹ
Nguồn mát ngọt vỗ về thời thơ trẻ
Mỗi buồn vui soi rọi đáy tâm linh
Sông quê ơi! Chất ngất vạn thâm tình
Phù
sa mật nuôi bờ tre chẹn lúa
Hoa trái rợp tươi xanh vườn vạn thuở
Mạch sông ngần bón tưới vạn chồi non
Con xa xôi thương nhớ đến mỏi mòn
Dòng nước mát sông quê mình ngoài nớ
Biết khi mô về
Để tha hồ - hít thở
Mùi sông quê thoang thoảng lúc tan sương
Hương, Ninh ơi! Nỗi nhớ ngút ngàn
Đường áo trắng thời vàng son trẻ dại
Xây ước vọng – theo từng trang vở trải
Từng mùa thi vang vọng tiếng ve ngân
Nợ sách đèn vay trả biết bao lần
Xếp nghiên bút… hóa thân… buồn thiếu phụ
Nơi xa ngái thương hồi chuông Thiên Mụ
Dòng sông xanh soi bóng tháp u hoài
Phút chia lìa… thê thiết điệu Nam ai
Chân dợm bước… mắt lưng tròng… giọt đọng
Sông Ninh đó vẫn một đời hoài vọng
Nhắn con xa nhớ nhé – sớm quay về
- Vâng, sẽ về - bởi đó chốn Chân Quê
Còn vạn nẻo chỉ là vùng di trú.