Diệu Trân
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh
trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông
Neranjara. Trong không gian ấm áp đó, một vị sa-môn như đang cố gắng tiến về bến
sông. Nhìn thân hình quá gầy ốm, tiều tụy của ông, ai cũng có thể biết rằng ông
là một nhà tu khổ hạnh như rất nhiều nhà tu khổ hạnh khác, dùng hình thức ép xác
để mong tìm sự giải thoát cho tâm linh. Vị sa-môn này đã quá yếu, bước chân
khẳng khiu nghiêng ngả như không mang nổi tấm thân chỉ còn da bọc xương. Nhưng
bước đi xiêu vẹo của ông rõ ràng là có chủ đích. Đúng thế, sa-môn muốn xuống tắm
gội dưới sông Neranjara, một việc mà lâu nay ông đã chẳng bận tâm làm! Nhưng
trong buổi sáng nắng vàng này thì khác vì ông vừa nhận ra rằng thân và tâm chẳng
thể rời nhau, trái lại, thân có khỏe thì tâm mới sáng, tâm có sáng mới quán
chiếu sự vật tinh thông. Và ông có một quyết định quan trọng là xả bỏ lối tu khổ
hạnh để chuyên tâm thiền định lắng sâu hơn. Ông sẽ xuống sông tắm gội rồi sau đó,
sẽ ôm bát vào làng xóm khất thực. Quyết định này ông chưa kịp nói cho năm người
bạn đồng tu biết nhưng ông tự nhủ, rồi sẽ tìm họ sau, cũng không muộn.
Khó nhọc lắm, rồi vị sa-môn cũng lần được tới ven
sông.
Neranjara là con sông chảy qua ngôi làng nhỏ
Uruvela gần thị trấn Gaya hướng đông nam Ấn Độ. Bên kia sông là làng mạc, đồng
cỏ, ruộng lúa. Bên này sông thì chỉ có rừng cây, đặc biệt là những cây pippala
tuổi thọ hàng mấy trăm năm, đã khoác lên khu rừng một vẻ đẹp vừa hùng tráng,
vững chãi vừa dịu dàng êm mát. Khi chảy ngang qua đây, sông có những khúc rất
cạn, trẻ mục đồng có thể lùa trâu qua rừng khi trâu đã ăn cỏ no nê ở bờ bên kia
để khỏi phải canh chừng trâu dẫm đạp lên ruộng lúa. Nhưng cũng có nhiều khúc khá
sâu, nước trong và mát, khách bộ hành đường xa mỏi mệt có thể xuống tắm một lát
là lại khỏe khoắn đi tiếp. Neranjara, tự thân chỉ có thế, chỉ như muôn ngàn con
sông khác, nhưng nhân gian đã đội vương miện lên cho nó vì chính nơi khúc sông
này, một người trí tuệ vô song - vượt lên trên muôn triệu người - đã từng xuống
tắm. Rồi khu rừng nữa, nó cũng chỉ như bao khu rừng khác nhưng nhân gian đã tô
phết hào quang lên nó chỉ vì dưới bóng đại thụ đã có một người trí tuệ vô song -
vượt lên trên muôn triệu người - đã từng ngồi thiền định. Giòng sông đó, khu
rừng đó và vị sa-môn quyết không rời gốc đại thụ nếu không tìm ra đường giải
thoát, nay, đã trở thành những biểu tượng tột cùng thiêng liêng, tột cùng tôn
quý đối với thế nhân. Nhưng tự thể, giòng sông Neranjara không hề khác gì hơn
sau khi được đội vương miện. Khu rừng pippala cũng thế, vẫn thản nhiên bốn mùa
mưa nắng dù được sơn phết hào quang; nhưng mấy ai nhận ra rằng những vương miện
tưởng là rực rỡ đó, những hào quang tưởng là sáng chói đó chẳng có một chút giá
trị nào đối với sông kia, rừng nọ mà Cái giá trị vô giá là ở những phương thức
giải thoát, người đạt đạo đã tìm ra và nó chỉ vô giá với ai nhận biết rồi thực
hành. Biết mà không hành thì nó vẫn chỉ là vô giá trị. Theo dõi bước chân người
đạt đạo để thấy rằng, trước khi ánh sao mai kỳ diệu hiện lên ở canh ba, soi tỏ
lẽ vô thường vô ngã; trước khi nắm được chìa khóa của tên cai ngục phiền não vô
minh, người ấy cũng như bao nhiêu sa-môn, đạo-sỹ khác, lang thang đó đây khổ
công tìm đạo, vấp váp sai lầm…. Chỉ khác, cái dũng của người trí tuệ là không
chùn bước trước gian khổ, hiểm nguy thử thách. Người đó chỉ nhìn thẳng vào mục
đích đã vạch ra. Mục đích đó là tự độ rồi độ tha. Đường đi của những người chỉ
sống vì lợi ích chúng sanh không bao giờ là những con đường bằng phẳng, dễ đi.
Nghe có vẻ nghịch lý nhưng chỉ suy nghĩ một chút thôi nó sẽ rất dễ hiểu vì tâm
thế gian vốn hẹp hòi, ích kỷ, ganh ghét, đố kỵ, tham sân……Làm sao những cái tâm
ấy dễ dàng để cho những người tốt lành, nhân ái, trong sạch hơn họ làm những
điều họ không làm được?
Dù là Phật tử hay không, chúng ta cũng đã ít
nhiều biết về con người trí tuệ vô song từng xuống tắm trên giòng sông Neranjara,
từng ngồi thiền trong rừng cây pippala gần 2600 năm trước. Người đó đã tìm ra
Đạo Cả, người đó được môn đồ tứ chúng gọi ngài là Phật. Phật là giác ngộ, Đạo
Phật là đạo giác ngộ. Dù đã tìm ra chân lý, dù đã miệt mài đi khắp đó đây giáo
hóa cho chúng sanh cùng khổ, dù đời sống ngài chỉ vì lợi người nhưng suốt 49 năm
hoằng pháp ngài thường xuyên gặp kẻ chống báng, vu cáo, bôi lọ, ganh ghét, tỵ
hiềm…..Với tất cả bao chuỗi ác nghiệp trùng trùng bất tận đó Đức Thích Ca Mâu Ni
vẫn bình tâm hoằng pháp và chỉ dùng hai thứ khí giới là Từ Bi và Trí Tuệ để
chuyển nghiệp cho kẻ tạo nghiệp. Và sự thật vẫn là sự thật. Trong màn đêm vô
minh, sự thật là đuốc. Người biết nương đuốc mà đi sẽ tới nơi muốn tới. Chỉ
những kẻ tự bịt mắt mình mới không thấy đuốc mà thôi.
Hãy như Sujata, Svastika, Rupak, Bala….. những
đứa trẻ hồn nhiên hiền hòa trong thôn Uruvela, chúng cúng dường sa-môn Gotama
cũng như khi đảnh lễ Phật Thích Ca chỉ cùng một tâm trong suốt.
Hãy như ngũ huynh đệ Kondanna, tuy bất đồng vì
không hiểu rõ nguyên do sa-môn Gotama chuyển phương pháp tu tập, nhưng khi biết
ra liền xả bỏ tự ngã để hài hòa.
Hãy như voi Nalagiri, nhận ra tiếng hú voi chúa
qua âm thanh của Phật là lập tức ngưng ngay sự ác độc hung hãn mà nó được lệnh
phải thi hành.
Hãy đừng như Đại Đức Devadatta, ném đá toan sát
hại Phật chỉ vì lòng ganh tỵ
Hãy đừng như các giáo phái chống đối Phật thời
Phật còn tại thế, chỉ vì tự ái ghét ghen.
Hay, cho đến rốt ráo, tâm thế gian nếu chẳng thể
nhu hòa từ ái thì xin hãy được như giòng sông Neranjara, sang không mừng, hèn
không tủi vì nó hiểu rằng sang hèn chỉ là thước đo của nhân gian vọng động.
Neranjara chỉ đích thực là giòng sông khi nó lặng thinh mà trong suốt, thực
chứng tâm đạo, ý đời, một nguồn xuôi chảy, dù gần 2600 năm trước, vị sa-môn ngồi
thiền trong cánh rừng bên kia sông có từng xuống tắm hay không.
Hãy như con nước chảy
Vương bước chân người qua
Nước xuôi giòng ra biển
Tâm người sẽ thăng hoa.