Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Vẫn
nhắm hướng Đông nam, theo con đường của khách thương,
bộ hành đầy bụi bặm, Siddhattha đi mãi. Cứ khoảng xế
trưa là chàng đi khất thực ở những xóm nhà. Lại thấy dê
và bò.
Ở đâu cũng dê và bò, phân và rác.
Ngoài những cánh đồng lúa bạt ngàn, ngoại ô Vesāli
còn có nhiều khu vườn trồng ớt, rau cải, xoài cùng các loại cây
ăn trái khác. Đời sống muôn dân tương đối no ấm. Thực
phẩm họ cúng dường cũng đa dạng, đầy đủ chất, bảo đảm dinh dưỡng cho các sa-môn,
đạo sĩ. Tuy nhiên, giới cấp lao động vẫn đầu tắt mặt tối, còn giới quý tộc, thương gia
lại phởn phơ, sung mãn, lợi dưỡng. Ấy là hai cực đoan mà
Siddhattha thấy rất rõ.
Còn quần chúng chung chung thì thất học, nghèo nàn và cuồng
tín. Chỉ thấy lạ một điều: Ai cũng vui vẻ, rộng rãi, cung kính các bậc tu
hành! Quả thật là một điểm son đáng tự hào!
Theo chân các đạo sĩ,
ba hôm sau, Siddhattha tìm được ngôi rừng như dự kiến. Đây là khu rừng trấn
ngự phía bắc thành phố Vesāli,
có ba hướng đến, từ những thôn làng nhà cửa san sát có vẻ sầm uất, thịnh vượng.
Sự thuận lợi ấy có lẽ là điều kiện mà đạo sư Ālāra
chọn lựa để thiết lập đạo tràng: Các đệ tử của ông dễ dàng trong việc khất thực.
Len lỏi trong rừng cây
rậm rạp, qua mấy ngọn đồi, lơ thơ đá tảng xanh rêu, vài ba con suối nước trong
vắt, Siddhattha thấy hiện ra một thung lũng tươi mát, khí hậu trong lành.
Chòi lá của đạo sĩ Ālāra nằm trên một ngọn đồi thoai thoải, dưới mấy cội
cây cổ thụ tàn lá che phủ sum sê. Ông chừng trên bảy mươi tuổi, rắn rỏi, quắc thước, đang ngồi trên
tấm nệm cỏ. Xung quanh ông, ước chừng mấy chục đạo sĩ
đang nghe pháp.
Yên lặng như tờ. Chỉ có giọng trầm ấm
của đạo sư là vang vang giữa núi rừng.
Buổi giảng pháp chấm
dứt. Các vị đạo sĩ đảnh lễ
thầy rồi chậm rãi đứng dậy, tản mạn ra các hướng ở trong khu rừng để tu tập.
Siddhattha bước lại, cung kính lễ
bái theo cung cách của một môn sinh đến yết kiến bậc
thầy rồi chàng nói:
- Thưa đức đạo sư! Xin
cho phép đệ tử gia nhập hội chúng để tu tập dưới sự dìu dắt của ngài.
Lặng lẽ nhìn vị sa-môn trẻ - thật ra
không còn trẻ nữa - tướng mạo đàng hoàng, ăn nói lễ độ, toát ra một cái gì rất
thoát tục, đạo sĩ Ālāra
cất giọng đầm ấm, chan hòa, thân thiện:
- Ừ, con cứ tu! Ta chấp nhận con. Nhưng
con tên gì? Đã từng tu học với ai chưa?
- Thưa, con tên Siddhattha, họ
Gotama. Con chưa tu tập dưới sự lãnh đạo của ai cả.
Đạo sư Ālāra
vui vẻ gật gật:
- Ừ! Tốt, tốt lắm! Vậy hãy cố gắng tu
tập nhé! Pháp và luật của ta cũng khá nghiêm túc đấy. Tuy nhiên ai
chịu khó hành trì đều có chỗ an trú cả.
Siddhattha thành kính đảnh lễ
rồi lui ra. Lúc ấy trời đã xế
chiều, im mát, gió thổi hiu hiu, chàng lần đến một cội cây, kiếm tạm lá cỏ làm
chỗ ngồi. Thế là bây giờ Siddhattha
mới tìm ra chỗ dừng chân cho mình trên bước lang thang tìm đạo. Vị đạo sư này nổi danh
nhiều phương; và chỉ cần nhìn thần thái, phong cách, giọng nói tự tin, chàng
biết đấy là bậc chân tu có sở đắc. Siddhattha
cảm thấy yên trí. Chàng ngồi thiền một thời như lệ
thường, sau đó đi vào một giấc ngủ khá sâu.
Sáng ngày, chim hót râm ran bên tai. Siddhattha mở bừng mắt dậy thì
mọi người đã đi đến các thôn làng để khất thực cả rồi. Có một đạo sĩ từ
chiếc lều bên kia con suối bước sang, nhìn chàng, tỏ
mối quan tâm:
- Mới đến tu hả? Vậy hiền hữu hãy ôm bát
đi theo
tôi. Ở đây thì không lo cái ăn. Các thôn làng quanh đây đa phần đều là đệ tử của đạo sư chúng ta cả.
Chỉ cần gắng tu cho tốt thôi.
Họ đi vào làng.
Siddhattha cũng đã khá quen việc trì bình khất thực nên
cách ôm bát, cách đi đứng... có vẻ thuần thục.
Vị đạo sĩ bắt chuyện:
- Có vẻ hiền hữu xuất gia đã nhiều năm.
Vậy chẳng hay đạo hữu đã từ đạo tràng nào mà đến đây?
Siddhattha thật tình kể lại một
vài chi tiết cần thiết, vừa đủ. Vị đạo sĩ có vẻ mến chàng nên tận tình
hướng dẫn. Ông ta vui vẻ cho biết, nếu cần các loại trái cây thì nên đến miền
nào, thôn nào. Các loại chất ngọt như đường cục, mật ong, mật mía, đường thốt nốt
thì ghé chỗ nào, làng nào. Quả là lời chỉ dẫn quý báu.
Tuy nhiên Siddhattha
lại nghĩ khác, chàng chỉ muốn đi xin ăn bình đẳng và không chọn lựa. Chàng chỉ thầm cảm ơn người
bạn có bụng tốt...
Lúc ôm bát vật thực
vừa đủ dùng trở về rừng thì mặt trời đã gần đỉnh đầu. Mọi
người đang lặng lẽ ngồi thọ thực nơi này nơi khác. Siddhattha trở
về cội cây của mình, ngồi xuống, nghĩ tưởng ân đức của thí chủ, cầu nguyện cho
họ; đồng thời, tự khuyên mình đừng nên mê đắm cái ăn, chỉ nên xem đây là năng
lượng vật chất để duy trì mạng sống mà thôi. Độ thực xong,
chàng đến bên suối, rửa bát rồi tìm đổ nước nơi không có cỏ xanh.
Điều này chàng làm tự nhiên thôi, nghĩ là phải làm như thế chứ chưa có ai chỉ
dạy cả.
Vị đạo sĩ bên kia suối quan sát việc làm của chàng, gật
gật đầu, mỉm cười.
Sau khi đi tản bộ kinh
hành năm bảy vòng, Siddhattha
trở lại gốc cây ngồi thiền định. Khi
xả thiền thì đúng vào giờ đạo sư Ālāra
giảng pháp và dạy cặn kẽ pháp môn tu cho từng người.
Đến bên đạo sư, chàng được ông ta dạy:
- Này, người bạn trẻ!
Thứ nhất là phải có lòng tin đối với thầy, lòng tin đối với bạn
đạo, lòng tin đối với các giá trị tinh thần thiêng liêng.
Thứ hai là phải hành trì học giới. Học giới có nhiều lắm. Cuối mỗi nửa tháng sẽ có một vị luật sư tuyên đọc cho hội chúng
nghe.
Nhưng có những học giới quan trọng, có lẽ người bạn trẻ cũng hiểu rồi, đó là
không được giết hại sinh mạng chúng hữu tình, không được dâm dục, không được
trộm cắp và không được tà mạng... Thứ ba là cách đi đứng,
ăn nói
khi giao tiếp với bạn đạo, khi vào trong các xóm làng... Và
cuối cùng là phải nghiêm túc trong hành trì, tu tập thiền định ngày đêm
không được lơ là, ngoại trừ lúc đi khất thực, tắm giặt, vệ sinh thân thể và ngủ
nghỉ. Nên ngủ rất ít.
Đêm ba canh chỉ nên ngủ một, hai canh... Sau đó, đạo sư Ālāra ân cần
hướng dẫn cách theo dõi hơi thở, chú niệm vào hơi thở
như thế nào...
Siddhattha kính cẩn lui ra.
Việc trước nhất là phải làm một cái chòi lá.
Chàng đi vào rừng, lát sau mang về một vác nặng. Nhờ đã
học hỏi trên đường nên Siddhattha dễ dàng tìm cây và lá cần thiết.
Rồi vác thứ hai, vác thứ ba. Siddhattha
thú vị, say mê công việc mới của mình. Đến chiều tối thì mái vòm lá của chàng khá đẹp, khá tiện nghi.
Ông bạn đạo sĩ bên kia suối đứng ngắm nhìn, cứ tấm tắc
khen ngợi mãi.
Việc tọa thiền điều
hòa hơi thở, chú niệm vào hơi thở thì Siddhattha đã quen.
Khuya, chàng xả thiền và nằm nghiêng lưng trên đám lá.
Ngày mai phải làm một sạp cây ngăn khí đất để giữ gìn sức
khỏe, chàng thầm nghĩ.
Khoảng đầu canh ba, Siddhattha
thức dậy, tọa thiền rồi đi kinh hành, chú niệm vào từng bước chân, trời sáng hồi
nào không hay. Buổi sáng, Siddhattha đi khất thực rồi với những công việc
như lệ thường. Buổi chiều, Siddhattha
lại vào rừng, lấy cây kết làm giường nằm, cùng vài đồ dùng cần thiết khác. Lúc tắm giặt, người bạn đạo sĩ tặng chàng một tấm vải cũ, có lẽ là
tấm vải bó tử thi đã giặt sạch. Siddhattha hoan hỷ, cảm ơn - vì quả thật, chàng cần một tấm
để mặc trong mỗi khi giặt giũ. Và cứ thế, Siddhattha
quen dần với đời sống tại nơi này. Vài ba ngày, chàng
tìm đến đạo sư trình pháp một lần.
Đạo tràng của đạo sư
Ālāra vào các ngày giữa và cuối tháng, cư sĩ nam nữ các thôn làng đến rất
đông. Những khi như vậy thì đạo sư Ālāra
thuyết pháp, giảng đạo suốt ngày. Thỉnh thoảng, có vài
vị đệ tử lớn tuổi thay thầy vài thời pháp. Họ nói nhân quả, thiện ác,
nghiệp báo, luân hồi tử sanh, phước báu, các cảnh trời... Nói tóm lại
Siddhattha nghe rất thuận tai. Có điều chàng thấy
giáo lý tuy đúng nhưng có nhiều kẽ hở, nhiều chỗ còn mù mờ, chưa được rõ ràng,
chưa được sâu sắc. Nó không được minh nhiên cho lắm.
Siddhattha
chỉ thầm nghĩ như thế, chẳng dám nói với ai. Mỗi tháng
có hai buổi tối, mấy trăm đạo sĩ tập trung lại - dưới trăng, những bó đuốc cháy
bập bùng - nghe các vị luật sư thay phiên nhau tuyên đọc học giới. Ồ!
Hóa ra cũng hay lắm. Cách đi đứng, ăn nói, ngủ nghỉ, nằm ngồi... đều có học giới cả.
Rồi còn cách giao tiếp, ứng xử đối với mọi người, từ vua chúa, quý tộc, các giới
cấp xã hội phải như thế nào cũng có những chế định. Khá
toàn hảo, chàng nghĩ, nhưng dường như muốn cho toàn thiện, toàn mỹ hơn thì còn
cần nhiều và nhiều nữa.
Như cách mặc y, mang bát, cách giữ tâm bình đẳng, mắt phải cúi
xuống nhìn phía trước một đòn gánh, hai đòn gánh. Bạn đạo thì phải sống
với nhau như thế nào, ví dụ như thân cần phải hòa hợp, lời nói cần phải hòa hợp,
ý nghĩ cần phải hòa hợp, tri kiến cần phải hòa hợp... Nếu đi sâu hơn nữa, muốn giáo pháp được hưng thịnh thì phải như thế
nào nữa; cả thầy và trò còn cần phải có những quy định cho người sống ở rừng, ở
thành phố, làng xã nữa. Mà thôi, chàng nghĩ, tìm được một đạo tràng chân chính như thế này
là quý lắm rồi.
Hôm kia,
Siddhattha
đến gặp đạo sư Ālāra
để trình pháp:
- Đệ tử theo sự chỉ dạy của thầy để điều tức. Ban đầu, đệ tử
theo dõi hơi thở, sau đó, bám sát, dính chặt vào hơi thở một cách liên
tục, không gián đoạn. Khi đã an trú được rồi thì tất cả mọi tạp niệm
lao
xao đều lắng dứt. Theo đó, hơi thở của đệ tử càng lúc càng nhẹ
nhàng, chỉ còn như làn khí mỏng manh tới lui.
Kiên định theo dõi làn khí ấy thì thấy nó càng lúc càng
trong và sáng ra. Cứ chú mục mãi vào cái trong và cái sáng ấy thì lát sau, ngoại
giới vong bặt, cái “tướng sáng” của hơi thở càng lúc càng trong. Trú
tâm, an trú tâm vào cái tướng sáng trong ấy, giây khắc sau, đệ tử cảm nhận
một trạng thái tịnh định với phúc lạc chưa từng có trong đời.
Đệ tử có thể ngồi một canh, hai canh với niềm tịnh định, phúc lạc ấy.
Đó là cái gì, thưa đạo sư?
- Hoàn toàn đúng, này người bạn trẻ!
Đấy là tầng thiền thứ nhất. Bây giờ con vẫn cứ vào ra tầng thiền ấy cho
thuần thục. Vài ba hôm nữa, con hãy đến trình ta, thử xem thế nào!
Y lời thầy,
Siddhattha đi vào, đi ra thiền ấy. Hôm
sau, chỉ cần chú tâm vào hơi thở là chàng đi vào định với thời gian rất ngắn.
Rồi chàng muốn trú vào phúc lạc, tức khắc có ngay phúc lạc - và giữ nguyên trạng
thái an
tĩnh thâm sâu ấy đôi khi cả đêm. Sáng ngày, tinh thần phơi phới,
an lành, như qua một giấc ngủ ngon không mộng mị.
- Con đã qua tầng thiền thứ hai, tầng
thứ ba của thiền định. Tuy nhiên, này người bạn trẻ, trạng thái phúc lạc của
định tam thiền, đã rất thâm sâu, nhưng vẫn còn thô tháo; con hãy bỏ nó để bước
lên một cảnh giới cao hơn: ấy là thấm sâu vào trạng thái thanh tịnh, yên ổn,
trầm lặng cùng sự quân bình tâm hồn một cách tuyệt hảo. Con đã tiến bộ vượt bậc
chưa từng thấy, nhưng còn phải nỗ lực tinh cần nữa.
Chỉ một hôm sau là Siddhattha
đến trình pháp – và đây thiền chứng thứ tư.
Đạo sư Ālāra
nói:
- Thật là tuyệt vời, người bạn trẻ! Bây
giờ, con hãy từ bỏ hơi thở, chỉ chú tâm vào cái tướng sáng tròn lặng ban đầu.
Chỉ chú tâm miên tục vào nó thôi, đến lúc nào con thấy mọi vật chất, mọi hình
sắc đều tan biến, chỉ duy trì cái tưởng hư không
rộng lớn, mênh mông, vô biên. Tất cả con, vũ trụ, vạn hữu không còn nữa.
Tất cả chỉ còn “hư không vô biên” mà thôi.
Chỉ ít hôm sau là
Siddhattha đạt được tầng thiền ấy.
Ở đây mọi cảm giác không còn nữa, mọi ý niệm khổ và lạc trong
tâm cũng vắng bóng, chỉ còn hư không vô biên, vô hạn là tồn tại.
Càng chú mục vào thêm nữa thì nội tâm và ngoại giới càng vong bặt, không còn ý
thức ngã và ngã sở, chúng chìm mất vào miền hư tĩnh của “hư không vô biên”
ấy. Lúc xả thiền, cái “tưởng” ấy vẫn còn mạnh, mọi hiện tượng
xung quanh như người, vật, cây cối... thảy đều mơ hồ. Siddhattha
lắng nghe hơi thở, nhịp đập của tim... thì mọi cảm
giác, ý thức mới bắt đầu hoạt động trở lại. Lúc đi vào xóm làng khất thực,
Siddhattha lắng nghe mình có thay đổi gì không, qua mắt nhìn, qua
tai
nghe... Rồi mọi ký ức, hồi tưởng, suy nghĩ có sự chuyển hóa
nào chăng?
Chúng vẫn vậy. Chúng vẫn lăng xăng, lao xao qua lại, tuy có yên lắng, trong sáng hơn -
nhưng tâm trí vẫn còn nguyên những câu hỏi, những khát vọng gì đó chưa thỏa
mãn... Trên lối mòn về rừng, Siddhattha chợt đứng lại, chú tâm vào tưởng
định đã đạt, một lát “hư không vô biên” lại hiện ra, chàng và mọi hiện
hữu không còn nữa. Xả thiền, Siddhattha chậm rãi bước đi, lắng nghe...
thì cảm giác, ý thức, tâm trí trở lại như cũ...
Giờ trình pháp, Siddhattha
nói ra tất cả mọi cảm nhận của mình, kể cả hoài nghi các ý thức thường nghiệm:
“- Không ai có sự cảm
nhận sâu sắc, diễn đạt trạng thái trong định, ngoài định rõ ràng, chân xác, như
chàng trẻ tuổi này.” -
Đạo sư Ālāra thầm nghĩ. Tuy thế, ông nói:
- Không sao đâu con. Đấy là tầng thiền vượt qua mọi sắc tưởng.
Khi ở trong định ấy thì thế gian, vạn hữu, tất cả mọi sắc pháp không tồn tại.
Con đã tiến bộ một cách phi thường. Nhưng bây giờ, con phải rời “tưởng hư không” ấy.
Đúng, con nói đúng. Hư không ấy có được là do “tưởng”
của ta cảm nhận, do “tưởng”
của ta biến hiện ra. Tầng thiền cao hơn mà con phải bước lên là chỉ có thức,
chỉ có ý thức. Thức vẫn là nền tảng của mọi hiện tượng, đồng với vạn
hữu. Thức tràn ngập, châu biến, không có ngằn mé...
Lại chỉ vào hôm sau,
Siddhattha đạt tầng thiền “thức vô biên” ấy. Chỉ có thức, thức vô biên, vô tận.
Vậy nó là kinh nghiệm, là trạng thái? Nếu rời bỏ kinh
nghiệm và trạng thái ấy, toàn bộ cảm giác và tri giác của ta ra sao?
Siddhattha suy nghĩ. Lúc xả thiền, chàng lại tập
nhìn, lắng nghe. Do năng lực của thiền còn được duy trì, Siddhattha
tiếp đối ngoại cảnh, chàng thấy rằng ở đâu cũng có thức, do thức, không có thức
thì không có gì cả. Một hạt cát, một
làn gió, một tiếng chim, một chiếc lá rơi, một giọt sương... cũng do thức cảm
nhận. Một ý tưởng nhỏ nhiệm, vi tế... cũng như
vậy. Cả sơn hà, đại địa, nhật nguyệt, thiên hà... cũng bởi
thức mà hiện hữu. Tuy nhiên, nếu thức là vô biên,
nền tảng như thế, thì vui buồn, khổ lạc, tham sân, những vướng kẹt tri kiến của
ta ra sao? Ồ, chúng có thay đổi do tâm và trí được trong sáng, thanh
lặng hơn; nhưng ta vẫn là con người cũ, mọi căn để phiền não vẫn chưa được xa
lìa. Có thể nó yên lắng nhưng chưa thật sự đoạn trừ được.
Siddhattha lại đến trình pháp
với những cảm nhận riêng tư cùng thắc mắc của mình. Đạo
sư Ālāra vô cùng khen ngợi, gật đầu lia lịa. Rồi
bậc thầy khả kính ấy lại hướng dẫn chàng một loại định cao hơn. Ông nói:
- Khi nghĩ là “không vô biên”
- thì chỉ có “không vô biên” là nền tảng của vạn hữu.
Khi nghĩ “thức vô biên”
- thì “thức vô biên” là nền tảng của mọi hiện tượng. Con biết sao
không? Định trước thì ta vướng “đối tượng không vô biên ngoại giới”,
định sau thì ta kẹt “năng tri thức vô biên nội tâm”.
Vậy thì phải xả bỏ đối tượng, xả bỏ năng tri, lìa “không vô biên” bên
ngoài, “thức vô biên” bên trong để bước đến một cảnh giới cao hơn:
“Không có gì cả”. “Không có gì cả” là không còn
năng sở, chủ khách, trong ngoài, đối tượng và nhận thức.
Thật là quá rõ ràng, Siddhattha
nghĩ, chàng bái tạ đạo sư. Ālāra
rộng mở thêm cho chàng một chân trời mới.
Và lộ trình tu tập từ bước đầu cho đến bây giờ, chàng thấy thật là chặt chẽ,
minh nhiên; là sự viễn ly từng bước một, từ cạn vào sâu, từ trạng thái thô tháo
đến vi tế, từ cảm giác, tri giác... nó lộ ra từng nấc, từng nấc trên chiếc thang
bước đến giải thoát... Siddhattha
có lòng tin đối với đạo sư, trở về góc lều của mình, chàng lại công phu tinh
cần, miên mật.
Trong thời gian tu tập
ở đây, lần hồi có khá nhiều đạo sĩ tìm đến làm quen với chàng. Nhìn vóc dáng cao
lớn, uy nghi, đường bệ của Siddhattha thì ai cũng ngần ngại, nhưng khi
trao đổi chuyện, họ không ngờ chàng vui vẻ, hòa nhã, lịch thiệp... rất dễ thân
cận. Nhất là ông bạn ở bên kia suối.
Thấy chàng tiến bộ quá nhanh chóng; và sự ổn định, trầm tĩnh thanh thoát ở nơi
chàng, cuốn hút mãnh liệt nên ông ta thường tìm đến học hỏi.
Siddhattha - ngoài thời gian công phu tọa thiền hay kinh hành, hễ rảnh rỗi
là chàng tận tình hướng dẫn người bạn đồng tu. Nhờ kiến
thức uyên bác từ quá khứ, nhờ lộ trình, bước đi thật sự vững chắc, nhờ nghiêm
túc hành trì lẫn chiêm nghiệm cá nhân, Siddhattha đã cặn kẽ hướng dẫn với
lối giải thích rõ ràng, khúc chiết... dễ nghe, dễ hiểu, dễ hành trì. Vị đạo sĩ
sung sướng, hân hoan vô cùng. Đúng là “học thầy không tày học bạn”.
Siddhattha có kiến thức như biển rộng, trời cao; lại có cách nói bằng lời,
bằng ánh mắt, bằng nụ cười, bằng cử chỉ... giúp cho đạo sĩ lãnh hội rất nhanh
chóng - hơn cả đạo sư Ālāra của ông. Nhờ vậy,
đạo sĩ hành trì có hiệu quả trông thấy.
Chỉ non tuần lễ, Siddhattha
đã đi vào định “vô sở hữu xứ” - là định không còn dính mắc bên trong, bên
ngoài khi khởi lên tưởng “không có gì cả”.
Siddhattha
chưa đến trình pháp vội, chàng cần có thời gian đi vào, đi ra định ấy cho thuần
thục, đồng thời chiêm nghiệm nó, giác tri nó ra sao.
Vị đạo sĩ bạn đã vào được tầng thiền thứ hai, hoan hỷ lắm, lúc này thường cận kề
Siddhattha, tìm cách giúp đỡ việc này việc kia, tự
coi mình như đệ tử, phải quan tâm hầu hạ “thầy”.
- Tôi là Pukkusa. Hôm kia, đạo sĩ nói - Đạo sư Ālāra Kālāma đạt được sở đắc
rất cao. Một lần nọ, ngài ngồi dưới gốc cây bên cạnh đường, lúc ấy có mấy trăm
cỗ xe bò đi ngang mà đạo sư không hề nghe biết. Thật là
hy hữu! Thật là vĩ đại!
Siddhattha mỉm cười:
- Ừ, đúng vậy, ông
bạn. Đạo sư của chúng ta
trú định rất sâu nên mới làm được vậy. Cả tôi, cả bạn, ai cũng có thể
bước vào cảnh giới mà bạn gọi là hy hữu, là vĩ đại ấy!
Pukkusa tròn mắt:
- Thật thế sao?
Siddhattha giải thích:
- Đấy là định “vô
sở hữu xứ”. Tôi
đã kinh qua định ấy. Và khi trú thâm sâu thì có lẽ năm trăm cỗ
xe đi qua vẫn không hay biết - là chuyện bình thường. Vào định ấy, ta
dường như đóng cửa tất thảy mọi cảm giác, tri giác, tâm hành, ông bạn ạ!
Vị đạo sĩ há hốc
miệng.
Siddhattha lại thở dài:
- Tôi đã rà soát, xem xét, chiêm nghiệm
định ấy... và thấy rõ rằng: khi ở trong định ấy thì ta an
ổn, vắng lặng, trong sáng, vô nhiễm; nhưng khi rời nó, trong tôi, vẫn ray rứt
những câu hỏi, những nhức đau về lẽ tử sinh, về sự giới hạn của đời người. Trong
ta, xung quanh ta, vạn hữu vẫn tồn tại sự bất toàn, đổ vỡ, trống không... chẳng
có cách gì vượt qua, giải thoát chúng được, ông bạn thân mến ạ!
Vị đạo sĩ sững sờ. Quả thật ông ta không
ngờ vị sa-môn dáng dấp rồng phượng, quý tộc, vương giả ấy, trong thời gian chỉ
hơn tháng đã có những sở đắc ngang với đạo sư của y. Và bây giờ lại còn tỏ vẻ
hoài nghi, còn tìm cách vượt qua đạo sư Ālāra nữa chứ!
Hôm ấy là đêm rằm, trăng trong vằng vặc,
sau khi hàng cư sĩ đến cúng dường, thính pháp ra về hết, Siddhattha
vào gặp đạo sư Ālāra Kālāma,
trình bày thiền chứng của mình, rồi mong ngài hướng dẫn cho một sự tu tập cao
hơn.
Nỗi vui mừng rạng rỡ trên khuôn mặt già
nua, đạo sư tán thán:
- Thật là hy hữu thay, Siddhattha!
Thật là vĩ đại thay, Siddhattha!
Cái mà ta tu tập một đời, hành trì một đời, người bạn trẻ chỉ hơn một tháng công
phu! Trong số đệ tử của ta - chưa ai được như thế!
Siddhattha cúi đầu, nhũn nhặn:
- Xin thầy mở lượng quảng đại đưa đệ tử
bước lên một cảnh giới quang rạng hơn nữa. Thiền định “vô sở hữu xứ” này
tuy tròn trặn, sáng trong như lưu ly nhưng lúc trở về với cảm thức thường niệm
thì mọi lợn cợn, vẩn đục, mọi thao thức, trăn trở về chuyện sống chết, nguyên
nhân tối hậu của trầm luân... trong đệ tử vẫn còn y như cũ.
Đạo sư Ālāra Kālāma nhìn
Siddhattha, trầm ngâm giây lâu rồi với giọng rất chân tình:
- Này Siddhattha! Nói thật, ta cũng chỉ có chừng ấy.
Ta cũng chỉ có được chừng ấy. Ta chẳng có gì phải giấu giếm người bạn trẻ.
Cái mà ta chứng đạt thì Siddhattha
cũng đã chứng đạt, không hơn ta mà cũng không thua ta.
Chợt ông hỏi han, thân mật:
- Vậy xuất thân, dòng dõi thế nào, hở
Siddhattha?
- Đệ tử thuộc giòng
dõi sát-đế-lỵ, vương triều Sākya, là thái tử con vua Suddhodāna,
mẹ là hoàng hậu Mahāmāyā. Sắp đến ngày đăng
quang vương vị, đệ tử từ bỏ tất cả để xuất gia tầm đạo, thưa đức đạo sư!
- Ồ, thật là đáng kính phục!
- Đạo sư Ālāra
tấm tắc khen ngợi - Tất cả những gì toát ra nơi người bạn trẻ đều phi phàm.
Muôn triệu năm may ra mới có một. Bây giờ, cái gì ta thành tựu
thì Siddhattha cũng đã thành tựu rồi. Vậy, hãy ở lại đây,
Siddhattha, con rồng vương giả! Hãy ở lại đây để cùng ta
chăm sóc hội chúng này.
Ta sẽ xem Siddhattha như một người bạn vong niên. Ta già rồi.
Và dưới ta, kể cả đệ tử lâu năm, chẳng ai có thể ngang bằng Siddhattha để
có thể kế thừa sự nghiệp được cả.
Siddhattha chưa dám trả lời thẳng
thắn, là không thể, sợ đạo sư Ālāra buồn.
Chàng cúi đầu, lặng lẽ. Nhưng khi thấy đạo sư muốn
triệu tập hội chúng để tuyên bố sở đắc của chàng, cùng tư cách kế thừa bậc đạo
sư, chàng nghĩ là nên nói thật, tốt hơn. Nghĩa là chàng đã từ chối rất lễ
độ:
- Rất tri ân
đạo sư - Siddhattha nói - Đệ tử không thể kế thừa sự nghiệp vinh quang mà
đạo sư đã hứa khả. Đệ tử chưa đủ đức, đủ trí, đủ tuổi tác, đủ
kinh nghiệm, đủ kiến thức, đủ sở hành để hướng dẫn hội chúng đông đúc này. Đệ tử còn trẻ quá về mọi phương diện. Lại
nữa, đệ tử còn cần phải hành trì, phải tu tập, phải tìm cho ra lộ trình bất tử,
giải thoát toàn vẹn và toàn mãn mọi khổ đau sinh tử và của rối bời tri kiến.
Đệ tử còn cần phải lên đường. Xin đảnh lễ từ tạ đức đạo sư, người đã quan tâm, ưu ái, chiếu cố đệ
tử bấy lâu nay.
Tuy rất buồn vì sự ra đi của người học
trò ưu tú nhưng đạo sĩ Ālāra biết là sự chứng đắc của mình còn nhỏ
bé,
trí tuệ của mình còn giới hạn, quả thật không thể giữ cánh chim bằng đang khao
khát tuyệt đối.
Cả đạo tràng hay tin, ai cũng bàng
hoàng, sững sờ: Hóa ra Siddhattha
mới đó mà sở đắc đã bằng đạo sư Ālāra nổi danh, lại còn hướng đến chân
trời khác nữa. Bốn, năm mươi năm nay mới có một người, một
nhân cách siêu việt.
Trăng đã về khuya, cả mấy cánh rừng
dường như không ngủ: Mấy trăm đạo sĩ còn thầm thỉ nói chuyện về một sự kiện hy
hữu, phi thường cùng nhân cách cao diệu của Siddhattha khi chàng từ chối
chức vị lãnh đạo hội chúng.
[1] Xa luân báu, ngọc báu (maṇi),
hoàng hậu báu, bá hộ báu (triệu phú), voi báu, ngựa báu, tướng quan
báu (đại thần).
[2] Kinh sử nói rằng, sau khi cạo râu và
cắt tóc xong, cho đến trọn đời, râu của ngài không bao giờ mọc nữa. Còn tóc, sau
khi cắt xong, chừa khoảng hai lóng tay - thì tất cả chúng đồng xoăn lại về phía bên phải như
hình xoắn ốc; và giữ nguyên hình dáng ấy cho đến lúc Nhập diệt.
Đức Phật suốt đời không cạo râu tóc lần nào nữa.
[3] Cây, gậy thuở đó được xem như khí
giới.