Minh
Thạnh
Văn
hóa Phật giáo Việt Nam, đó không phải là một khái niệm trừu tượng, mà là những
biểu hiện rất cụ thể, thấy được, nghe được, sờ được, ngửi được, cảm được…
Ở đây, chỉ xin giới thiệu đến quý bạn đọc một hình thức tồn tại của văn hóa Phật
giáo Việt Nam: Tiếng chuông chùa Thiên Mụ, qua sự cảm nhận của nhà văn Nguyễn
Xuân Hoàng. Từ một cửa ngõ âm thanh cụ thể, nhà văn đã nhìn vào văn hóa Phật
giáo Việt Nam trong chiều sâu thăm thẳm của nó, để không chỉ nghe, mà còn thấy,
còn cảm, còn rung động.
Dưới
đây là toàn văn bài bút ký Tiếng chuông Thiên Mụ:
“Sống thẳng một mạch mười năm ở Huế, nhiều đêm mất ngủ, tôi nằm nghe tiếng
chuông Thiên Mụ tựa như lời nói thầm âm hao mà lòng thổn thức nhớ quê.
Một năm 365 đêm, đêm nào cũng thế, cứ vào giờ tí, sư trụ trì chùa Thiên Mụ lại
cho thỉnh chuông.
Mùa xuân, tiếng chuông nghe trong vắt như hơi gió heo may đi qua kẽ lá, làm bồi
hồi đất trời, đâu đó những mầm sống cựa mình để đất nở hoa, cho hoàng mai rực
vàng suốt một dãy phố chợ. Kể từ tiết lập hạ, tiếng chuông
nghe thảnh thơi hơn, có nắng gió và sự trầm tĩnh của lòng người thỉnh chuông.
Tiếng chuông như có bóng mát che chở mỗi đời người.
Nhưng từ trong sâu thẳm vẫn sừng sững một nỗi cô đơn nhân từ của trời cao, và
tiếng chuông lúc này nghe như đại ngã bao dung.
Vào giáp thu, trời Huế tím cho đến tận nửa đêm, đường
phố nhiều lá rụng, tiếng chuông Thiên Mụ vì thế cũng đã vàng xao xác. Cây cối
rũ
lá thanh thoát và tiếng chuông đi qua xương cây nghe mơ hồ như một hơi thở nhẹ,
say say nắng. Đó cũng là thời khắc bịn rịn chia lìa của các tình nhân, họ ngậm
ngùi trở về để mặc vai áo cho sương thu
ướt đẫm. Tiết lập đông có tiếng chim sếu kêu khan ngoài sông
lạnh, Huế rét mướt vô kể. Tiếng chuông Thiên Mụ nghe
như buồn hơn bao giờ hết, để người xa quê lòng nao nao nhớ một bếp lửa hồng.
Chỉ một tiếng chuông mà như chao ôi đã đong bao buồn vui, khắc
khoải của một đời người. Rằng nương theo tiếng chuông này, ta sẽ gặp ngày hội ngộ của bốn mùa.
Với những người am hiểu Huế, sở dĩ tiếng chuông chùa Thiên Mụ hay và vang xa
nhất, không phải chỉ vì nhờ cấu trúc tinh xảo và chất đồng tinh luyện mà còn vì
chuông được thỉnh bằng dùi gỗ mít nài xứ núi, tuổi trên một trăm, thớ gỗ đã
chuyển cả từ vàng nghệ sang đỏ sẫm với vân hình cánh nhạn. Gỗ
mít nài xứ núi khắc với đồng như thủy với hỏa. Sự tương khắc để mà sinh sôi cho tiếng chuông kỳ diệu, nghe một đời
mà không thấu trọn.
Còn với người Huế xa quê, tiếng chuông Thiên Mụ là nỗi nhớ dai dẳng như mưa dầm,
buốt rức, suốt một đời ám ảnh những bước chân ai phiêu bạt mưu sinh.”
Tác giả Nguyễn Xuân Hoàng có lẽ chưa phải là một Phật tử, vì ông nghe tiếng
chuông Thiên Mụ không qua thính giác giáo lý nhà Phật. Nhưng tác giả, qua bài
bút ký, đã thể hiện mình như một con người văn hóa Việt Nam điển hình, gắn bó
với Phật giáo trong sự tự nhiên bàng bạc…
Nhớ quê là một nỗi niềm bình thường khi nghe tiếng chuông chùa
trầm buồn da diết, mà ở đây lại là tiếng chuông chùa Thiên Mụ, tiếng chuông đã
đi vào tâm thức văn hóa dân tộc. Hơn thế nữa, Nguyễn Xuân Hoàng còn thấy
tiếng chuông trong mối liên hệ nhân duyên với vạn vật: “Mùa xuân, tiếng chuông
nghe trong vắt như hơi gió heo may đi qua kẽ lá, làm bồi hồi đất trời, đâu đó
những mầm sống cựa mình để đất nở hoa, cho hoàng mai rực vàng suốt một dãy phố
chợ. Kể từ tiết lập hạ, tiếng chuông nghe thảnh thơi hơn, có nắng gió và
sự trầm tĩnh của lòng người thỉnh chuông. Tiếng chuông như có bóng mát che chở mỗi đời người. Nhưng từ
trong sâu thẳm vẫn sừng sững một nỗi cô đơn nhân từ của trời cao, và tiếng
chuông lúc này nghe như đại ngã bao dung…”
Tiếng chuông Thiên Mụ quả là một bậc thềm của không gian nghệ
thuật Phật giáo. Ở đó, qua cái nhìn thời gian của Nguyễn Xuân Hoàng,
người ta thấy lung linh hình ảnh của vô thường, trong âm thanh trải dài qua năm
tháng: “Vào giáp thu, trời Huế tím cho đến tận nửa đêm,
đường phố nhiều lá rụng, tiếng chuông Thiên Mụ vì thế cũng đã vàng xao xác. Cây
cối rũ lá thanh thoát và tiếng chuông đi qua xương cây nghe mơ hồ như một hơi
thở nhẹ, say say nắng.”
Tiếng chuông Thiên Mụ tồn tại trong cả muôn vật, trong nắng, trong gió, trong
đường phố, trong mùa thu, trong cây lá… duyên khởi,
duyên sinh. Tiếng chuông có một chút trầm tư của thiền, một
chút sâu sắc của quán, cả một chút im ắng của lắng nghe. Nhà văn không nói đến im lặng, mà chỉ nói đến âm thanh, nhưng người
đọc có thể nghe qua âm thanh để cảm sự yên lặng, một sự yên lặng thâm trầm độc
đáo của văn hóa Phật giáo Việt Nam. Yên lặng để có thể nghe được tiếng chuông sâu sắc như thế.
Văn hóa Phật giáo Việt Nam cũng thể hiện qua những dòng phân tích cơ chế vật lý
của tiếng chuông Thiên Mụ. Không có một chút giáo lý nhà Phật nào, mà chỉ có lý
thuyết ngũ hành của Lão giáo. Nhưng,
người đọc vẫn cảm thấy cái chất văn hóa Phật giáo Việt Nam qua cái kết quả âm
thanh kỳ diệu, mà tác giả diễn đạt bằng câu văn “nghe một đời mà không thấu trọn”.
Đó chính như là nghe lời kinh Phật, lời kinh được giảng ở đất Việt, đất Huế, bên
ngọn đồi ven sông Hương long lanh huyền ảo. Tiếng chuông là
tiếng kinh vô tự, vô ngôn, không nói mà nói rất nhiều, trong ngôn ngữ của đất
trời sông núi Việt Nam. Nó đi thẳng vào trái tim,
không cần hiểu, không cần nghĩ, mà định hình ở người đọc nhiều thứ: sắc không,
vô thường, đại ngã, vô ngã…
Đặc biệt, tác giả Nguyễn Xuân Hoàng thấy được cảm được từ
tiếng chuông Thiên Mụ sự trầm tĩnh của người thỉnh chuông.
Ở đây, là khái niệm tâm truyền tâm của thiền học.
Có khi là sự im lặng, hay qua ánh mắt. Còn ở đây là tiếng
chuông Thiên Mụ.
Như vậy, văn hóa Phật giáo đã đi vào đất Việt, người Việt.
Để chỉ qua một nét âm thanh, và không có những ngôn từ giáo lý, mà từ nhà văn,
người đọc có thể cảm nhận được chiều sâu của sự hòa quyện đạo pháp và dân tộc,
để hình thành những ấn tượng văn hóa đặc trưng, có thể nói, là vô cùng■
Nguồn:
Tập San Pháp Luân 81