“Những đứa Mỹ con”
khác với những đứa con của Mỹ (Americanized kids VS American’s kids). Đó rất
có thể là một dáng vẻ điển hình cho thế hệ thứ hai của người Việt Nam định
cư ở nước ngoài: Vỏ ta, lòng người; hay lá chuối xanh gói bánh dày nhân hot
dog!
Những bậc cha mẹ
người Việt thường cảm thấy buồn buồn pha một chút xót xa khi con cái mình
sinh ra và lớn lên trên xứ người bị đồng hóa toàn diện bởi hoàn cảnh sống
xung quanh. Phụ huynh Việt thường gọi con em mình là “Tây con” hay “Mỹ
con”... khi các em bị Tây hóa hay Mỹ hóa hoàn toàn.
Dăm ba năm đầu mới
định cư ở nước ngoài, phụ huynh người Việt thường trầm trồ khen con em mình
nói tiếng Tây, tiếng Mỹ nhanh và giỏi. Nhưng rồi mười, hai mươi, ba mươi năm
sau, sự trầm trồ khen ngợi ấy lại quay qua dành cho các em bé còn nói được
ít nhiều tiếng Việt vì tiếng nước ngoài trở thành tiếng mẹ đẻ là nhu cầu, là
lẽ sống trước thực tế đương nhiên. Sự thâm nhiễm tính dân tộc và văn hóa là
một dòng chảy luân lưu không thể vay mượn tạm thời mà có. Nó là một quá
trình sinh, thành, hoại, diệt khách quan. Cũng thế, tuổi trẻ Việt Nam ở nước
ngoài cũng tương tự như hạt giống quýt Hương Cần, cam Bố Hạ, bưởi Năm Roi
mang qua trồng ở những vùng nhiệt đới Florida, Hawai. Chất và lượng sẽ không
còn giống như cũ. Thế hệ kế thừa hoàn toàn thay đổi theo những điều kiện xã
hội và “thổ nhưỡng” nơi vùng đất mới.
Nhiều bậc phụ huynh dần dần xa lạ với con em mình. Xa lạ từ ngôn ngữ, nếp
nghĩ, lối nhìn, cách ứng xử... đến dáng vẻ và nhu cầu tâm tình, tâm lý và
tâm linh.
Như những chiếc thuyền nan cố bơi ngược dòng nước lũ để... về nguồn, thế hệ
đàn anh – đang lần lượt ra đi về đất – cũng cố gắng tìm nhau, kẻ chống người
chèo để lôi đoàn tàu thế hệ tuổi trẻ Việt Nam đang chạy băng băng nơi đất
khách nhích về phía “đất nhà” được chút nào hay chút ấy. Trong âm thầm và
lặng lẽ, cảm động biết bao với những “chiến sĩ vô danh” đang đầu tư nhiều
thời gian và công sức vào những lớp Việt ngữ, những sinh hoạt đoàn thể và
tôn giáo, những cuộc lễ hội, họp mặt, họp bạn, khóa tu học để nhắc nhở, phát
huy và giới thiệu văn hóa Việt cho chính con em Việt của mình đang thành
người... của họ!
Sáng nay, 29 tháng 7 năm 2011, nhân dịp viếng chùa Tam Bảo tại Baton Rouge,
tôi được dự một cuộc họp mặt của tuổi trẻ Mỹ Việt - Việt Mỹ. Cố ý nhấn mạnh
nét tiêu biểu “Mỹ Việt - Việt Mỹ” vì khi quan sát, tiếp cận và khơi chuyện,
tôi nhận ra rằng trong tổng số hơn 70 em thanh thiếu niên tại địa phương và
từ các vùng đất xa xôi khác như Canada, Michigan, California... mới tụ hội
về đây hầu hết là người Việt thuần chủng, còn lại số ít là Việt lai Mỹ và Mỹ
toàn ròng. Tất cả các em đều chỉ nói tiếng Anh. Nét “Đại Việt” điển hình của
các em là dáng người châu Á với tóc đen, da vàng, mũi không cao (như ông Cao
Bích trong báo Thiếu Nhi đã tủm tỉm cười đoán “phịa” rằng, thế hệ sau vì đã
phổng mũi thở nhiều khói xe và nở mũi ngửi nhiều chất béo nên mũi đỡ tẹt hơn
là thế hệ trước?!). Khó mà tìm thấy ngôn ngữ hay cung cách Việt Nam nơi lớp
đàn em sinh ra và trưởng thành tại nước ngoài. Từ giọng nói, điệu
cười, chơi đùa, làm việc tới cách chào hỏi bên ngoài cũng như tình cảm, tâm
lý, lối suy nghĩ, lý luận bên trong đều đã Tây hóa, Mỹ hóa. Chính những nhà tâm lý và xã hội học thời
danh nhất của thế kỷ này cũng đều đồng ý với nhau rằng, tiến trình hội nhập
và đồng hóa của tuổi thơ trong hoàn cảnh mới là tấm vé một chiều trôi xuôi
theo sự phát triển tự nhiên không có gì cản lại được. Tác dụng của môi
trường văn hóa và xã hội đã hình thành một con người mới. Trong khoảng thời
gian ngắn ngủi đôi ba ngày, có “phép lạ” nào đưa được các em trở về với
nguồn cội chính mình?!
Tiêu đề chính của cuộc họp mặt 3 ngày đêm là Khóa tu học Thân Tâm An Lạc bằng tiếng Anh
cho tuổi trẻ không phân biệt tôn giáo (Peaceful Mind and Body Retreat for young people regardless of
their religious beliefs). Người có sáng kiến và đứng đầu tổ chức cho khóa tu
học này là thầy Thích Đạo Quảng, trụ trì chùa Tam Bảo, với sự cộng tác và hỗ
trợ của các nhà chuyên môn Việt Mỹ trong nhiều lĩnh vực như giáo dục, tâm lý,
tôn giáo, tham vấn và yoga.
Khóa tu học có nhiều đề mục sinh hoạt, nhưng chủ đề trung tâm vẫn là Chánh
niệm (Mindfullness). Chánh niệm là trái tim của sự sống. Chánh niệm giúp con
người sống thật trong hiện tại của đương niệm hiện tiền. Thế hệ đàn anh đang
bị rơi vào hai trạng thái cực đoan làm suy giảm trầm trọng ý nghĩa và chất
lượng của đời sống: Đó là tình trạng quay về quá khứ đầy ảo ảnh, hay mơ mộng
tương lai cho con cháu mai sau làm lẽ sống, nên hiện sinh thường vắng bóng.
Bằng hữu ngồi lại với nhau để say sưa sống chuyện quá khứ; bà con họp mặt
nhau để nói toàn chuyện viển vông của tương lai là hiện tượng phổ biến
trong cộng đồng người Việt lớn tuổi. Căn bệnh tâm lý trầm kha nầy đã làm nứt
rạn chiếc cầu thế hệ. Hiện trạng phụ huynh và con em càng ngày càng xa nhau
trong đời sống tinh thần sẽ dẫn tới tình trạng thế hệ kế thừa mất hết động
cơ và lý do tìm về nguồn cội. Tình trạng “hồn Trương Ba, da hàng thịt” hay
da Việt hồn Tây sẽ khó lòng tránh khỏi.
Ngày đầu tham gia sinh hoạt với các em,
sáng sớm làm thủ tục ghi danh, giới phụ huynh – trong đó có kẻ đang gõ những
dòng này – không tìm thấy sự tươi mát tự nhiên trong thế giới hoa niên người
Mỹ gốc Việt. Cảm giác thiếu thuần nhất; tâm lý “lổn chổn sắn khoai” chiếm
lĩnh hết bầu không khí mở đầu. Trong lúc phụ huynh cố gắng nói tiếng Việt
với con em – được tiếng nào hay tiếng đó – thì các em cứ “vô tư” nói với cha
mẹ bằng tiếng Mỹ thẳng băng, thoải mái như nói với chú Sam.
Thế nhưng chỉ trong vòng nửa buổi sinh hoạt, khi tất cả các em thực hành
Chánh niệm thì biên giới phân ranh ngôn ngữ giảm dần. Khi một tiếng chuông nhắc nhở Chánh niệm gióng lên, tất cả mọi
ngôn ngữ khác nhau sẽ hòa hợp lại thành một ngôn ngữ duy nhất: Tĩnh lặng. Im
lặng là một loại thân ngữ (body language) thật vẹn toàn. Những tâm hồn dù
nổi loạn thế nào, những tạp niệm dù hoang vu lãng đãng đến đâu cũng hiểu
nhau tròn đầy trong im lặng. Người ta không ai
cần phải hùng biện, thuyết phục, gào thét hay năn nỉ ỉ ôi cũng hiểu nhau qua
thân ngữ: Nụ cười là hoan hỷ, chắp tay là từ bi, định thần là trí tuệ.
Một ngày đã qua. Đêm về ngồi quây quần bên nhau trong thiền đường, các em bé
và “người lớn” có cùng niềm an lạc, lòng thương mến và tính cảm thông. Đôi câu phát biểu ngây thơ của những em bé
lên tám, lên mười cũng dường như nói lên được nỗi lòng của các cụ già thất
thập cổ lai hy khi cùng sống trong Chánh niệm. Cái chắp tay cúi chào của em
bé được đáp lại bằng cái chắp tay vái trả của cụ già quả thật không có gì
hơn kém hay khác nhau vì cả hai có cùng bản chất tâm lành và hướng thiện.
Mới có 3 ngày ngắn ngủi nhưng dòng đời như lắng đọng trong một vị hỷ lạc
không riêng cho các em mà cả với phụ huynh. Tuổi trẻ khám phá ra cái Tịnh từ
trong cái Động; nhận biết được sự tương đồng từ trong cái khác biệt và sống
gắn bó với những người bạn bốn phương xa lạ mà đã từ lâu em không hề hay
biết hoặc cách xa. Đặc biệt nhất là tuổi thơ học được sự tỉnh thức lạ lùng
từ trong sự mặc nhiên hưởng thụ từ bao nhiêu năm qua như: Biết trân trọng
cảm ơn thiên nhiên và con người đã tạo ra miếng ăn, phương tiện cho cuộc
sống. Biết sự ăn
uống không phải là nhai và nuốt lạnh lùng để làm đầy bụng đói mà là một hoạt
động có ý thức tìm nguồn sống để vươn lên. Biết tự rửa sạch cái bát mình
ăn mà từ lâu các em đã giao khoán cho cha mẹ và người khác. Biết lợi
ích của đức tính kiên nhẫn giúp thân tâm được an lạc. Và, quan trọng nhất là
biết có thể làm việc, học hỏi hay chạy nhảy vui chơi trong Chánh niệm. Chánh
niệm không phải chỉ có trong sự im lìm, tĩnh lặng mà Chánh niệm là sự tỉnh
thức hiện tại trong chính mình. Các em có thể giữ Chánh niệm khi chơi thể
thao, khi ca hát, khi chuyện trò và trong mọi sinh hoạt lớn nhỏ đời thường.
Chánh niệm là biết mình có mặt trong dòng sống và ngược lại là quên mất mình
để chỉ nhìn thấy “họ”!
Trong đời sống tinh thần truyền thống, thế hệ đàn anh, đàn chị Việt Nam
thường quên mình để sống cho người. Văn hóa làng xã và Nho giáo đã xây dựng mối tương quan ngoại
tại: Tam tòng là đạo cho người và tứ đức là đạo quên mình. Rốt cuộc, con
người chưa hề được sống tỉnh thức trong hiện tại vì đôi tay chỉ biết lo phục
vụ và đôi mắt chỉ biết đăm đăm nhìn vào sự buồn vui của đối tượng mà mình hy
sinh phục vụ. Một chủ thể chưa sống thực cho mình thì biết dựa vào đâu để
an trú trong Chánh niệm.
Trong xã hội Âu Mỹ, thế hệ đàn em lại rơi vào một cực đoan đối nghịch. Các
em chỉ biết sống cho cá nhân mình mà bất chấp đối tượng đang hy sinh phục vụ
cho mình. Tuổi trẻ phương Tây thường thản nhiên hưởng thụ những tiện nghi
vật chất và sự chăm chút tinh thần của cha mẹ như một việc làm bình thường
theo chu kỳ tự nhiên của đời trước thì phải chăm sóc đời sau. Do vậy, lòng
biết ơn sự hy sinh của cha mẹ không mang một sức mạnh của lòng hiếu thảo.
Trong ngôn ngữ phương Tây không có chữ “Hiếu” mang cùng một khái niệm tương
tự với văn hóa phương Đông. Cụm từ “filial piety” để dịch “lòng hiếu thảo”
thật ra là một ý niệm tôn giáo như lòng kính ngưỡng đối với Chúa chứ không
phải là tinh thần phụng dưỡng của con cái đối với cha mẹ theo ý nghĩa phương
Đông. Nếu tuổi trẻ sống theo chủ nghĩa cá nhân và thực dụng, chỉ biết cá
nhân mình và dựa vào mình với cái tâm ích kỷ không buông xả thì chẳng khác
gì con gà nằm trong trứng. Không lọt ra khỏi vỏ trứng thì không gian trong
hay đục, chánh niệm hay vọng động, bồ-đề hay tà kiến cũng chỉ là một tuồng
ảo hóa như nhau.
Thế giới phương Tây đang mở rộng tầm nhìn và tầm với để tiếp cận với đạo
Phật. Các nhà sư Tây Tạng, Đài Loan và Nhật Bản thường xuyên mở nhiều trung
tâm hành thiền và tổ chức thường xuyên các khóa tu học cho tuổi trẻ phương
Tây. So với họ, đạo Phật Việt Nam ở nước ngoài còn quá mỏng về mặt tổ chức
và đào tạo nhân sự trong vai trò hoằng pháp tiếp cận với thế hệ kế thừa,
nhất là đối với giới trẻ trí thức.
Trung bình ở Mỹ, cứ hàng chục ngôi chùa Việt Nam mới tìm được một chùa có
đơn vị Gia đình Phật tử sinh hoạt. Hệ thống Gia đình Phật tử là chiếc cầu thế hệ có nề nếp và chất
lượng nối kết giữa hai thế hệ già và trẻ đáng tin cậy của Phật giáo Việt Nam
mà đạo Phật tại nhiều quốc gia châu Á khác đang mong muốn xây dựng. Thế
nhưng vai trò của Gia đình Phật tử không phát huy được tác dụng tích cực
trong tình thế của Phật giáo Việt Nam hải ngoại hiện nay. Nguyên nhân có nhiều mặt nổi cũng như góc khuất; nhưng trực
tiếp nhất vẫn là hiện trạng phân hóa nghiêm trọng giữa các hình thức tổ chức
giáo hội “sư nói sư phải, vãi nói vãi hay” của một tình trạng “giáo hội
không có giáo hội”. Bên cạnh đó, khả năng chuẩn bị về kiến thức văn hóa và
ngoại ngữ của các tăng sĩ hoằng pháp còn quá giới hạn nên phải dựa dẫm vào
một lối thoát tu học nặng tính chất lễ nghi trang hoàng hình thức hơn là
thực dụng truyền giáo. Hệ quả tất nhiên là tôn sư hoằng pháp và đệ tử trẻ
tuổi mất đi những chiếc cầu giao cảm.
Đạo Phật vẫn thường được truyền thừa qua lăng kính trí tuệ. Nhưng trí tuệ sẽ
thiếu đất nẩy mầm, đâm nhánh trong lòng tuổi trẻ trước tình trạng kinh điển
Phật giáo Việt Nam còn tối tăm và khó hiểu đối với giới trẻ vì ảnh hưởng
nặng nề của Hán tạng. Ngôn từ chùa viện phát triển tùy duyên, nếu tránh
không muốn nói là tùy tiện. Quý tu sĩ trẻ tuổi chưa đủ bề dày công hạnh đang
có khuynh hướng lấy Kệ thay Kinh; đem phụ chú và suy diễn của các học giả và
luận sư thay cho lời Phật dạy để đánh động dễ dãi vào cảm tính của tín đồ
nhất thời hơn là khơi nguồn và làm sáng đạo lý lâu dài.
Và, khuynh hướng phát triển mạnh mẽ đáng lo ngại nhất là khát vọng chạy theo
tiền bạc vật chất của xã hội phương Tây nặng tính thực dụng. Những phương
trời cao rộng của đạo Phật bị vây bủa trong giới hạn hình tướng của chùa to
tượng lớn, nghi lễ rình rang nặng tính chất bùa chú, cầu khẩn của hàng Phật
tử xuất gia và tại gia. Sự nhầm lẫn giữa phương tiện hoằng pháp độ sinh và
cứu cánh giải thoát giác ngộ của thế hệ đàn anh đã khiến tuổi trẻ ngại đến
chùa, xa Thầy và chao đảo niềm tin tâm linh.
Xin đừng quên là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và tốc độ phát triển chóng
mặt của ngành thông tin truyền thông đại chúng đã giúp tuổi trẻ ngày càng
“khôn trước tuổi” nhanh gấp nhiều lần thế hệ đàn anh. Chỉ có thực chất mới
lôi kéo được thế hệ kế thừa về với Đạo. Ảo tưởng dùng huyền thoại tôn giáo
để hoằng pháp cho tuổi trẻ ngày nay là vô tình rút đi những chiếc cầu thế hệ
đang chông chênh, ọp ẹp dưới sức nặng của Sự Thật đối mặt với giáo điều Tâm
Linh trong thời đại mới.
Như người xưa đã thấy: “Thà thắp một ngọn nến nhỏ vẫn còn hơn ngồi im mà
nguyền rủa bóng tối.” Ước mong những ngọn nến tu học thắp sáng cho thế hệ kế
thừa sẽ luân lưu ngày một tỏa sáng hơn dưới những mái chùa■
Baton Rouge mùa Vu Lan 2011
Nguồn: Tập San Pháp Luân 81
|