Hoàng Như Mai
Tiểu
thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó
là lời tự bạch của một thế hệ, trong số đó có Khái Hưng là đại diện - một thế hệ
bị khủng hoảng tinh thần, khủng hoảng niềm tin trước thời cuộc, hoang mang trước
cái nguy cơ tự đánh mất mình, tự huỷ hoại và đã tìm thấy niềm tin, sự tế độ
trong đạo Phật.
Tiểu thuyết Hồn bướm
mơ tiên xuất bản năm 1933 là cuốn tiểu thuyết mở đầu
cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khái Hưng, cũng là cuốn tiểu thuyết đăng
nhiều kỳ trên báo Phong Hóa của nhóm Tự Lực văn đoàn được độc giả
nhiệt liệt hoan nghênh. Cuốn tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên tạo ra một uy
tín lớn cho tờ báo Phong Hóa và nhóm Tự Lực văn đoàn, khích lệ các nhà
văn của nhóm sáng tác, và tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn đã giành được vị trí hàng
đầu trong phong trào văn học trong một thời gian dài; cho đến nay, âm vang của
tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn vẫn còn đọng trong ký ức độc giả, trong đó, được cảm
tình sâu sắc nhất là tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên.
Thế nhưng, đối chiếu
với tôn chỉ mục đích của Tự Lực văn đoàn và khuynh hướng chung của tiểu thuyết
Tự Lực văn đoàn thì tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên lại đứng ở môt vị trí
độc lập, biệt lập nếu không nói là đối lập.
Tiểu thuyết Hồn bướm
mơ tiên hướng về đạo Phật rất rõ.
Sau thế chiến thứ nhất,
thực dân Pháp ra sức khai thác các thuộc địa để bù vào những tổn phí trong chiến
tranh.
Ở Việt Nam, cuộc khai thác thuộc địa này là lần thứ hai ( lần
thứ nhất được tiến hành sau khi xâm lược Pháp đã chiếm xong cả ba miền Nam,
Trung, Bắc ).
Từ 1924 đến 1929 là
thời kỳ hoàng kim
trong lịch sử khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Nhưng
giữa lúc đó thì xảy ra cuộc kinh tế khủng hoảng thế giới kéo dài từ 1929 đến
1933. Việt Nam không đứng ngoài cuộc.
Cuộc sống cực kỳ khó
khăn. Nạn thất nghiệp trầm trọng, người chết đói như rạ:
Một đồng được chín mười
thương
Mẹ con chết đói vì
chưng không tiền.
Trong cuộc tranh giành
nhau cái sống, những tệ nạn xã hội diễn ra khủng khiếp.
Năm 1929, nổ ra cuộc
bạo động do Việt Nam quốc dân đảng tổ chức. Các cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái, Hưng
Hóa, Phú Thọ, Sơn Tây,... vào đầu năm 1930. Không thành
công; bọn cầm quyền tiến hành đàn áp đẫm máu.
Năm dấy lên phong trào
Xô Viết Nghệ Tĩnh càng khiến cho thực dân Pháp lo sợ.
Chúng không ngần ngại mở ra những cuộc khủng bố tàn bạo.
Trong khung cảnh kinh
tế và chính trị như vậy, nhân dân hoang mang, điêu đứng tột độ, tưởng chừng như
sống trong địa ngục trần gian. Số người tự tử không ít.
Và người ta cần có niềm
tin để sống và hi vọng. Người ta tìm đến đạo Phật từ bi phổ độ.
Một phong trào chấn
hưng Phật giáo diễn ra mạnh mẽ. Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học được thành lập năm 1930, cho xuất tạp
chí Từ Bi Âm. Ở miền Trung, hội An Nam Phật học được
thành lập năm 1932, có tạp chí Viên Âm làm cơ quan ngôn luận.
Ở Hà Nội sau một thời gian vận động, Hội Phật giáo Bắc Kỳ được
thành lập (1934). Hội cho xuất bản kỷ yếu và tạp chí
Đuốc Tuệ.
Sáng lập các hội là các
thiền sư đạo cao đức trọng và các nhà trí thức đầy uy tín đương thời.
Nhà văn Khái Hưng, một
người có tâm hồn nhạy cảm, có học vấn sống trong hoàn cảnh xã hội ấy chắc chắn
có chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo khi sáng tác tiểu thuyết Hồn bướm mơ
tiên.
Sơ lược cốt truyện như sau:
Ngọc là sinh viên
trường Canh Nông trong dịp nghỉ hè về ở với ông bác là sư tổ chùa Long Giáng. Chùa có một chú tiểu tên Lan. Thấy Lan là người có học, tính
tình hòa nhã, Ngọc thân ngay. Nhưng Lan thực ra là gái, cha mẹ mất sớm, ở với
chú bị chú ép gả chồng, mà Lan thì khuynh hướng về đạo Phật từ nhỏ do ảnh hưởng
của mẹ, nên Lan bỏ nhà, cải dạng nam trang đến chùa Long Giáng xin
tu. Khi Ngọc phát hiện Lan là gái, chàng từ tình bạn
chuyển sang tình yêu. Vì Lan quyết chí tu hành như đã hứa với mẹ
lúc
lâm chung, cô khước từ tình yêu của Ngọc.
Câu chuyện giản dị,
không có gì ly kỳ gay cấn. Tác giả củng không diễn tả, phân tích tình yêu
phức tạp, éo le như ta thường thấy trong các tiểu
thuyết Tự Lực văn đoàn và các tiểu thuyết đương thời. Cả cái mô-tip: xung
đột ái tình - tôn giáo cũng không được khai thác triệt để nhằm
thu hút hứng thú của độc giả. Đọc tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên, ta
cảm nhận rõ ràng Khái Hưng mượn câu chuyện để nói về đạo Phật, để trình bày cái nhìn của ông đối với đạo Phật. Quả
là Khái Hưng có nhìn đạo Phật qua cái lăng kính thi vị hóa, nhưng ông nhìn đúng,
với cái tâm của một người am tường, và mộ đạo.
Ngay từ đầu tiểu
thuyết, tác giả đã miêu tả chùa Long Giáng, một ngôi cổ tự thanh u tịch mịch dễ
cảm hóa lòng người, nâng người ta vươn lên tinh thần hướng thiện:
" Phía Tây sau dẫy đồi cỏ biếc sắc đồi đỏ, ửng lấp
loáng qua các khe đám lá xanh đen. Mái chùa rêu phong đã lẫn màu cùng đất
cùng cây, cùng cỏ. Khoảng khắc mấy bức tường và mấy cái cột
gạch quét vôi chỉ còn lờ mờ in hình trong cái cảnh nhuộm đồng một màu tím
thẫm. Lưng chừng một cái đồi cao, mấy nóc nhà rêu
mốc chen lẫn trong đám cây rậm rạp, bốn góc, bốn gác chuông vượt lên trên từng
lá xanh um.
... Trong làn không khí
êm đềm, tiếng chuông thong thả ngân qua như đem mùi thiền làm tăng vẻ đẹp của
cảnh thiên nhiên. Lá cây rung động, ngọn khói thiết tha, bông lúa sột soạt như cảm tiếng gọi
của Mâu Ni muốn theo về nơi hư không tịch mịch".
Câu chuyện về sự tích
Văn Khôi công chúa, con vua Lý Nhân Tôn, không chịu lấy
chồng, đang đêm trốn khỏi cung, tìm đến tu ở chùa này, vì thế nhà vua nổi giận
sai phóng hỏa đốt chùa; nhưng ngọn lửa vừa nhóm, có con rồng
vàng hiện lên phun nước lửa tắt ngay, vì thế chùa mới có tên Long
Giáng lại tôn thêm giá trị kỳ thú của ngôi chùa, làm nảy sinh trong
lòng người môt niềm tin thành kính.
Tác giả dẫn độc giả đến
với những sinh hoạt trong chùa được tác giả quan sát rất tinh tế:
"... Trên chiếc bục gỗ trải chiếc đậu sư cụ ngồi tụng kinh cặp mắt đăm
đăm nhìn thẳng vào quyển sách có chữ to đặt trên cái kỷ nhỏ gỗ mọc.
Tay phải sư cụ cầm dùi
gõ mõ như để chấm câu cứ đọc bốn chữ lại đánh một
tiếng. Tay trái sư cụ đặt lên trên quyển kinh, thỉnh thoảng lại rời quyển sách,
nhắc chiếi dùi gõ một tiếng vào cái chuông con trông hình dáng như cái lon sành.
Sư cụ có vẻ tôn nghiêm lắm. Bao nhiêu tâm trí hình như
thu cả vào quyển
kinh, không hề thấy cụ liếc mắt ra chỗ khác. Các pho tượng ngồi trên
bệ gạch thì hình như đang lắng tai nghe, có vẻ trầm tư
mặc tưởng.
Tiếng kinh du dương,
mùi trầm ngào ngạt, Ngọc tưởng tượng sống trong một thế giới khác, thế giới mông
ảo thần tiên.
... Chú ( chú tiểu Lan ) vẫn chăm chú vào phậnsự: cứ đọc một
câu lại đánh mọt tiếng bớt, khi câu niệm chỉ còn it chữ thì hai tiếng kế tiếp
lại thêm gần nhau cho tới khi chu tiểu đổ hồi.
Ngọc cố chờ đến mười lăm phút cho chú tiểu đánh dứt
hồi chuông, cuối cùng đặt vồ xuống ván gác, rồi nghiêm
trang hỏi rằng:
- Sao chú phải cầu kinh
thế mới đánh được chuông ?
Lan cười:
- Đánh chuông phải đọc
thần chú chứ.
- Thần chú ! Hay nhỉ.
- Nghĩa là mười sáu câu
niệm Phật, ba
hồi một trăm hăm ba tiếng.
- Vậy nhớ được cũng khó
lắm
nhỉ.
- Phải học thuộc lòng
chứ.
- Những ba hồi, một trăm hăm ba tiếng !
Thảo nào mãi bây giờ mới dứt hồi ".
Những công việc
này, đối với các nhà tu hành thì không có gì đáng để ý vì là quen
thuộc; nhưng đối với những ai chưa ở chùa thì tác giả đã cho thấy chùa
là nơi có quy củ, trật tự nghiêm chỉnh , mỗi hành vi đều có
ý nghĩa, không phải là xô bồ luộm thuộm như nhiều người lầm tưởng.
Mấy trang tiểu
thuyết diễn tả lễ làm chay thật là sinh động:
" Luôn hai tối, các nhà sư ở những chùa lân cận
nhận được giấy mời của sư cụ Long Giáng tề tựu đến dự lễ rất đông.
Ngoài sân chùa,ở giữa bày ba tầng án thư chồng
lên nhau theo hình thang. Hai bên cũng đều
có án thư. Nến thắp linh tinh, ánh sáng phản chiếu vào những
mặt kính tròn ở các mũ giấy bày la liệt kín cả mấy hàng án thư
trông lấp lánh như các ngôi sao trên trời.
Tối nào các nhà sư cũng cắt lượt nhau tụng kinh đến
tận hai ba giờ sáng, hoặc ngồi ở chiếu giữa hoặc đứng
sát các án thư bên. Cứ xong một lần tụng niệm lại có đánh trống lớn ,
trống con, thanh la, não bạt,nghe rất là inh ỏi.
Đến tối
thứ ba thì vào đàn giải kết.
... Sư ông ngồi ở chiếu
giữa tụng kinh một lúc lại chạy vòng quanh đàn ,
nghĩa là đi lượn khắp các hàng án thư, theo nhịp nhanh hay chậm của tiếng
trống và tiếng thanh la. Sau lưng sư ông gần hai chục người chạy theo, nào
tiểu nào vãi, nào thiện nam tín nữ cùng là những
người sự chủ.
... Chạy xong một tuần sư ông lại vào chiếu giữa múa mênh quyết
ấn trông rất dẻo tay, rồi cầm kéo cắt những đồng tiền kết giấy
thành hình người và treo lủng lẵng ở ba hàng dày chung quanh bàn. Cứ mỗi lần lại
cắt bốn, năm đồng , kỳ cho hết là tan đàn.
Trong khi ấy thì những
người tùy tùng hoặc
vào ngồi lễ ở sau lưng sư hoặc đứng sang một bên lẫn vào chỗ người
đi xem".
Đối với các nhà
folklore học, đây là những tư liệu để nghiên cứu
rất bổ ích và thú vị. Với sự thông thái, họ sẽ lượng giá được
những
đặc sắc của một nền văn hóa dân tộc không thể xem thường. Cuộc
lễ làm chay có cả một cơ sở triết lý và biểu hiện một giá trị nghệ thuật đặc
biệt.
Những người dân Việt
Nam bình
thường dự lễ được ghi nhớ, hiểu thêm về lễ nghi phong tục đậm đà bản sắc
dân tộc, những truyền thống quý báu mà ông cha ta đã gây dựng
và lưu truyền lại cho con cháu. Họ được học một cách trực
quan, sâu sắc bài học đạo hiếu đối với cha mẹ: một đạo lý
thiêng liêng, một tín ngưỡng rất có ý nghĩa. Đạo Phật đi vào lòng nhân
dân một cách tự nhiên như vậy.
Nhiều người
vẫn cho rằng tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên
nêu lên sự xung đột giữa Ái tình và Tôn giáo. Không hẳn như vậy, ấy chỉ là
một tình tiết của câu truyện.Ta hãy bàn về tình
tiết ấy trước và vấn đề có xung đột hay không, sẽ bàn sau.
Khi phát hiện tiểu Lan
là gái giả trai, Lan
lại xinh đẹp, hiền hòa, dịu dàng, Ngọc đã nảy sinh tình yêu, điều
này là có thể. Lan là cô thiếu nữ trẻ, có học , bấy lâu sống
với những người trong chùa là dân quê chất phác, nay gặp Ngọc
có học vấn, tính tình hòa nhã vui vẻ, tất nhiên cũng có cảm tình.
Lan vì trốn một cuộc tình duyên ép buộc mà đi tu, cô mới tu được hai năm, chưa
phải đã dứt bỏ được thế tục, mà Ngọc lại bộc lộ tình yêu tha
thiết, chân thành, Lan làm sao tránh khỏi được đôi lúc phân vân ? Nhưng
mỗi lúc nhận thấy mình chơi vơi, Lan vội
cầu viện sự cứu trợ của đức Phật.
Lần thứ nhất, Lan leo
lên thang gác chuông, bất thình lình gặp rắn, hoảng sợ ngã
vào lòng Ngọc; sau đó Ngọc đứng canh rắn để Lan thỉnh chuông.
Sự đụng chạm giữa trai và gái, cùng lòng hào hiệp của
Ngọc có tác động đến tình cảm của Lan. Lập tức đêm ấy, Lan thắp nhang
tụng
niệm cầu khấn đức Từ bi phù hộ cho có đủ nghị lực xa chỗ trầm luân.
Lần thứ hai, Lan đọc
bức thư bày tỏ tình yêu của Ngọc ( Ngọc viết định đưa
Lan nhưng không dám, xé đi, Lan vô tình chắp lại những mãnh giấy và đọc được ),
Lan bị xúc động:
" Lan buồn rầu nghĩ ngợi, hai bên má có ngấn
hai hàng nước mắt.
Bỗng có tiếng mõ tụng
kinh ở chùa đưa tới.
Một nụ cười kín đáo
trên cặp môi Lan
thong thả trở về.
... Vào trong nhà chùa
ngửi thấy mùi trầm ngào ngạt nghe thấy tiếng tụng kinh dịu dàng, Lan tươi cười thở dài, như kẻ ngã xuống sông vừa ngoi lên được mặt
nước vậy.
Làn không khí êm đềm
tịch mịch bao bọc, những pho tượng khổng lồ, nét mặt thản nhiên. Trên bục gỗ sư
cụ khóac áo
bốn thân ngồi ngay thẳng như pho tượng chỉ hơi mấp máy cặp môi và động đậy cánh
tay gõ mõ.
Lan đứng sửng hồi lâu,
nhắm mắt lim dim hai tay, chắp ngực, rồi thong thả nhẹ nhàng như cái bóng, mon
men lại sau lưng sư cụ ngồi xệp xuống đất, lâm râm khấn khứa ".
Lần thứ ba, một cử chỉ
không cố ý của Ngọc làm cho áo của Lan tuột cúc trễ vạt
ra, Ngọc thoáng thấy ngực Lan quấn vải nâu. Lan sợ quá bỏ chạy và Ngọc cũng rất hối hận. Ngọc chạy tìm
Lan và trấn an Lan là chàng không có tà tâm gì hết, thề với Lan sẽ về Hà
Nội để Lan yên tâm tu hành.
Ngọc về Hà Nội. Lan bỗng cảm thấy sầu
khổ: Lan đã yêu .
" Lan lẩm bẩm: " Ta rất có tội với đức Phật tổ ".
Lúc ấy, Lan thoáng ngửi thấy mùi trầm. Thì ra lên tới chùa
trên từ bao giờ mà Lan
không biết vẫn tưởng còn ngồi trong buồng Ngọc. Ngước mắt trông lên các tượng
thấp thoáng trong bóng đèn tù mù dầu lạc. Tuy không nhìn rõ, nhưng Lan cũng
tưởng tượng ra cái vẻ tươi cười khoan dung mà lãnh đạm của những pho Bụt.
Từ từ Lan cúi mặt như người vừa bị quở mắng, rồi rón rén tới bục gỗ quỳ
xuống thì thầm khấn khứa ".
Lần thứ tư
là sau khi chùa Long Giáng vắng bóng Ngọc. Ba bốn ngày sau khi Ngọc đi, chú
chẳng thiết làm gì, chẳng muốn ăn uống gì...
Chiều hôm ấy, mặt trời
đã lặn sau rặng đồi tây, Lan còn thơ thẩn ở trên vườn
sau chùa. Ngồi trên bó cành lẫn lá để ngổn ngang chưa buộc cặp mắt lờ đờ nhìn về
phía xa xa, linh hồn Lan
như đương theo đám mây phản chiếu sắc hồng của vừng thái dương mà bay về nơi hư
vô tịch mịch. Lan thở dài buột mồm thong thả nói: " Nát
bàn ! Bồng lai ! ".
Hai ý tưởng
" tôn giáo " và " ái tình " hình như đương công kích
nhau ở trong tâm trí.
Bỗng Lan giật mình tỉnh
bừng giấc mộng. Tiếng chuông như cất giọng từ bi vỗ về
an ủi dỗ dành. Lan mỉm cười lẩm bẩm: " Thế nào cũng phải lánh xa nơi trần tục".
Tiếng chuông đổ hồi như
vui mừng cười khanh khách vì đã giải thoát được tâm hồn Lan.
Lan cũng cười tiếp theo hồi chuông, tiếng cười
lanh lảnh trong làn không khí yên lặng dưới ánh tà mù thảm đạm buổi chiều tà".
Xung đột giữa ái tình
và tôn giáo ? Không có.
Bởi vì nếu là xung đột thì cuộc giao tranh sẽ quyết liệt, giằng co, đưa tới bi
kịch. Ở đây, quả là có những lúc ái tình gợn lên trong Lan, tuy nhiên nó
cũng như những lượn sóng gợn lên trên mặt hồ khi có hòn đá ném xuống, nhưng chỉ
trong chốc lát mặt hồ lại trở về phẳng lặng; nó cũng như hạt sương còn
đọng lại trên lá buổi sớm mai, nhưng mặt trời chiếu nắng là sương tan ngay.
Thế thì có thể nói: Đạo
Phật đàn áp tình cảm ?
Không đâu.
Hãy đọc đoạn đối thoại
của Lan
và Ngọc ở phần kết thúc; khi Ngọc trở lại chùa thăm Lan:
-Vậy xin Lan cứ ở đây
tu hành, rồi ngày Ngọc được nghỉ cho phép Ngọc phóng xe đạp lên đây thăm Lan,
Lan có ưng như thế không ?
Lan mỉm cười:
- Nếu được mãi như
thế ?
- Tôi xin thề với Lan
rằng tôi giữ được mãi như thế. Tôi nêu Phật tổ tôi xin thề với
Lan rằng suốt trong đời tôi, tôi sẽ chân thành thờ ở trong tâm trí, cái
linh hồn dịu dàng của Lan.
- Thế nghĩa là thế
nào ?
- Nghĩa là suốt đời
tôi, tôi không lấy ai, chỉ sống trong cái thế giới mộng ảo của ái tình lý tưởng,
của ái tình bất vong bất diệt.
Lan hai dòng nước mắt
đầm đìa, dịu dàng bảo bạn:
- Không được. Còn gia
đình của ông ?
Ngọc lạnh lùng:
- Gia đình ! Tôi không có gia đình nữa.
Đại gia đình của tôi nay là nhân loại, là vũ trụ mà tiểu gia đình tôi là... hai
linh hồn của đôi ta ẩn núp dưới bóng từ bi Phật tổ.
Lan tươi cười, ôn tồn
bảo bạn:
- Tôi không ngờ Phật
giáo đã cảm hóa ông được sâu xa đến thế.
Đương nhiên hai người
trẻ tuổi ấy chưa hoàn toàn rũ sạch được trần tâm, chưa đạt
tới được đỉnh " vô ngã ", nhân sinh thành Phật dễ đâu ( Truyện Nam hải
Quan Thế Âm ), nhưng đích thật họ đã vượt qua được vũng bùn tình dục mê muội mà
vươn lên tình yêu thuần khiết, tình yêu vị tha; ấy là bước đầu giải thoát.
Tiểu thuyết Hồn bướm
mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự
bạch của một thế hệ, trong số đó có Khái Hưng là đại diện - một thế hệ bị khủng
hoảng tinh thần, khủng hoảng niềm tin trước thời cuộc, hoang mang trước cái nguy
cơ tự đánh mất mình, tự huỷ hoại và đã tìm thấy niềm tin, sự tế độ trong đạo
Phật.
Nguồn:
khoavanhoc-ngonngu.edu.vn