Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Vào đời vua Trần Nhân Tôn, dưới chân
núi Thiên Thai có một nhà ẩn sĩ họ Khưu, tánh tình lập dị, không màng danh lợi
mà quanh năm chỉ say mê hoa kiểng.
Gia tài của cha mẹ để lại cũng có
trăm vạn, vài chục đám ruộng nhưng lần hồi Khưu ẩn sĩ bán sạch.
Hễ nơi nào có giống hoa quý, hoa lạ thì với giá nào chàng cũng mua cho bằng được.
Không có tiền mua, chàng đổi bằng của cải, tài sản. Chỉ non mười năm sau,
nơi khu vườn của chàng đã có hơn trăm loại phong lan,
trăm loại thổ lan, ngoài ra các lại danh hoa, danh mộc như trà mi, mẫu đơn, tảo
mai, mộc cẩn, thục quỳ, oanh trúc... thì thật không kể xiết.
Vào vườn, khách phải đi xuyên qua một
khu rừng trúc. Trúc cũng không phải là những thứ trúc tầm
thường, mà được sưu tầm từ các xứ xa xôi. Có những thứ trúc như tảo đằng,
tuyết đầu, thiên bút, cao phong, vân lôi... chàng phải đặt mua từ các dãy núi
Thiên Sơn, Côn Luân tận cực Tây Trung Hoa.
Qua khỏi khu rừng trúc, khách phải
dừng chân nơi một con suối thơ mộng. Ở đâu đó, nước rỉ ra từ những kẻ đá, trôi
lặng lờ trên mặt cuội trắng tinh rồi vỗ nhẹ lên mấy đám cỏ biếc nở hoa li ti
ngũ
sắc. Cá lội từng đàn đủ màu, đủ vẻ, giỡn với những hạt bọt nổi
phù du nom thanh bình như giữa cõi bồng lai. Đứng mỏi, khách có thể ngồi
trên những tảng đá lưu niên cổ đại, tượng đứng, tượng ngồi, tượng nằm, sắc đá
loáng thoáng rêu đen, xám, nhợt nhờ sương nước như những bức tranh “vĩnh tịch”.
Qua suối, bên mép chiếc cầu đá cong
cong, ai đó viết nguệch ngoạc vài câu thơ không rõ nét, trông cũng phóng khoáng
và phiêu bồng quá thể. Trên một tảng đá dựng thẳng, cao hơn
trượng, đầu xám bạc, chân rêu xanh, nổi lên hai câu thơ, nét đại tự sắc mạnh như
vệt đao chém giữa hư không:
“Thiên hạ hốt nhiên đại định,
Tứ thời tịch mịch hoa khai!”
Chẳng có gì hay ở đó, đại ngôn và tầm
thường nữa, nhưng kể ra là có khí phách, ngang tàng một chút hoặc cuồng ngông
một chút thì cũng vậy. Nhưng đâu là cái đại toàn? Giữa
cái tuyệt bích rơi xuống một vài nét chấm phá thô tháo không tạo cho ta một vài
cảm giác mạnh và đột ngột hay sao?
Người ta thường gọi chàng là Khưu ẩn
sĩ, nhưng cái danh của chàng chơi hoa ở núi Thiên Thai đã làm rung động chốn đế
kinh và thu hút rất nhiều danh sĩ, đạo nhân, tao nhân mặc khách...
Hôm kia, qua
chân núi Thiên Thai là hai Tăng nhân bộ hành phong trần. Đến khu rừng trúc, họ dừng chân lại.
Một người nói:
- Cái thú say hoa kiểng thì thế gian
chỉ có Khưu ẩn sĩ là một.
Người kia
đáp:
- Họ say hoa thì chúng ta say Phật.
Tục, thanh hay thoát tuy có khác nhau nhưng cũng là một cách say đó thôi!
Nói xong, y cười ha hả, giở chiếc nón
rộng vành bày khuôn mặt ốm thanh tú, đôi mày sắc và nước da sạm đen. Y còn rất trẻ, tuy
khoác chiếc áo nâu rộng đã bạc màu nhưng cũng không dấu được nét phong lưu kỳ
mỹ.
Người kia
đã đứng tuổi, to lớn, cằm vuông. Y nhăn mặt:
- Pháp đệ nói vậy không sợ giảm giá
trị của đạo ta xuống sao? Hoa mà dám ví với Phật sao?
- Có gì đâu mà Pháp huynh bảo là dám
và không dám?
Rồi tăng nhân trẻ chợt cao giọng:
- Phật là hoa. Hoa là Phật. Phật là tối thắng hoa, diệu thắng hoa.
Pháp huynh vì không thấy Phật nên không thấy hoa. Hoặc
giả, Pháp huynh bận đi tìm Phật nên chẳng thấy hoa bao giờ.
Tăng nhân đứng tuổi nhăn mày có vẻ
trách móc nhưng lặng lẽ nhẫn nhục không nói gì. Ngay khi ấy có tiếng reo từ rừng
trúc vọng lại:
- Hay lắm! Hay! Sư bác luận thế làm
cho kẻ quê mùa dốt nát này bái phục làm sao! Phật là hoa, hoa là Phật, hay lắm!
Câu nói vừa xong, thì một người gầy
gò mặc áo bào xanh chống gậy trúc sau vòm cây bước ra, dáng dấp tiêu sái, nhàn
thoát khó đoán nổi tuổi tác. Y cung hai tay lại, phong cách lễ
độ vừa phải.
Vị tăng trẻ đáp lễ rồi hỏi:
- Ẩn giả là chủ nhân chốn kỳ hoa?
Người ấy là Khưu ẩn sĩ, cười đáp:
- Vâng, xin thưa, chữ chủ nhân
kia chỉ là lạm dụng, khiên cưỡng. Ai đòi làm chủ hoa
thì kẻ đó khi mạn, thất lễ với trời đất. Kẻ ngu
hèn này đâu dám thế. Hoặc giả sư bác muốn chỉ dạy một bài học
về tâm pháp chăng?
Vị tăng lớn tuổi bây giờ mới quay
lại, chăm chú nhìn người lạ mặt một hồi:
- Quả thật danh bất hư truyền. Đúng
là phong độ cao nhân ẩn sĩ họ Khưu! Chúng tôi cam bề thất lễ.
Nhưng bây giờ thì xin cáo từ!
Vị tăng trẻ nói:
- Huyền Quang tôn giả có lễ chưa về
núi, hiện giờ đang còn ở Yên Tử cũng nên. Hay là,
Pháp huynh à, chúng ta qua bộ vào trong kia
một lát cho mãn nhãn cái kiếp nhân sanh?
Vị tăng đứng tuổi hừm một tiếng:
- Hoa sắc, sắc hoa đều là hiện tướng
của ma quân! Pháp đệ hãy khá lưu tâm. Sinh tử là việc lớn, trăm năm nào có
mấy khắc, chớ có say mê hoa thơm cỏ lạ dọc đường để
ngàn thu ân hận.
Khưu ẩn sĩ tủm tỉm cười:
- Mời quý sư ông, sư bác vào tệ xá
uống vài chung thanh trà lấy thảo. Huyền Quang tôn giả
và ngu
lão đây vốn có tình quen biết, lúc nào đến Thiên Thai, đại sư cũng dừng chân ở
đây giây lát để ngắm hoa và thưởng trà.
Vị tăng trẻ nói:
- Vậy thì xin phép chủ nhân cho chúng
tôi được quấy quá.
Thế là vị tăng đứng tuổi đành miễn
cưỡng đi theo. Cảnh đẹp làm cho vị tăng trẻ phải ngẩn ngơ, thán phục.
Qua cầu, y dừng chân nơi hai câu thơ thật lâu rồi trầm trồ khen ngợi không hết
lời. Vị tăng đứng tuổi hừm một tiếng rồi xăm xăm đi trước.
Ôi! Thật là không
thể kể xiết được những kỳ hoa dị thảo ở khắp nơi. Trên cội cây, hốc đá,
lối đi, bờ suối, triền non... đâu đâu cũng trăm sắc nghìn vẻ. Lời
đồn đại của thế gian là mười mà chưa nói lên được một. Cảnh trí u nhã làm
cho tâm hồn con người lâng lâng lắng dịu. Chủ nhân và vị tăng trẻ có vẻ tâm đầu
ý hợp nên trò chuyện huyên
thuyên...
Khi rời rừng hoa để bước vào Thảo
nhai đình, tức là chái mây nhô ra bờ vực làm nơi thưởng trà, vọng nguyệt, vị
tăng trẻ hốt nhiên ngâm mấy câu thơ lục bát với nhã ý tặng riêng Khưu ẩn sĩ:
Trần gian một thoáng không dài
Có khi mộng hóa, liên đài cũng nên!
Thềm mây đọng bóng chơn thiền
Ai ngờ tâm pháp một miền cỏ hoa!
Vị tăng đứng tuổi lòng ngổn ngang
trăm mối buồn phiền vì người Pháp đệ của mình. Vừa qua chung trà thứ nhất, y đã cất giọng nói lớn:
- Chủ nhân có một đời sống thanh cao
lắm, nhưng dám xin thưa thẳng một điều: tự mình có một đời sống nhàn lạc ở nơi
góc núi đẹp như tiên cảnh này, danh lợi thị phi đắc thất dường như gió thoảng
ngoài tai, dẫu vậy, phải chăng cũng còn ở trong cái ngã ái chật hẹp
lắm ư?
Ẩn sĩ họ Khưu mỉm cười mà rằng:
- Dạ phải, sư ông dạy chí phải!
Vị tăng đứng tuổi cười lạt:
- Khưu ông mang cốt cách, phong thái
của một dật sĩ, năm kinh ba giáo xem chừng cũng đã có ghé mắt xem qua. Vậy thì
lời dạy của thánh hiền phải chăng là sở đắc này: Một đời sống nhàn lạc riêng tư,
chật chội, phó mình buông trôi cho dòng chảy xiết “bộc lưu sinh tử”?
Ẩn sĩ họ Khưu cúi đầu nhũn nhặn:
- Dạ phải, sư ông dạy chí phải!
Vị tăng trẻ lấy làm khó chịu:
- Pháp huynh sao lắm lời đến thế? Mỗi
người ai chí nấy, nhân nào quả nấy, tâm nào cảnh nấy! Đức Thích Ca đại sĩ bao
nhiêu năm thuyết pháp mà không hề nói một chữ! Tu-bồ-đề im lặng thiền duyệt mà
chư thiên rải hoa! Tâm mà có thể nói được? Pháp mà có thể nói được?
Vị tăng đứng tuổi khuôn mặt thoáng
rắn lại, rồi chợt cười ha hả:
- Hay lắm! Cám ơn Pháp đệ đã thuyết
Bát-nhã tánh không cho ta nghe! Cám ơn Khưu ẩn sĩ đã cho bần tăng lãnh hội tri
kiến Pháp Hoa kinh. Thậm tri! Thậm tri! Vậy thì quý ngài cứ
tâm đắc thù tạc, cho bần tăng thất lễ kiếu từ.
Ân sĩ họ Khưu chợt nói:
- Xin sư ông nán lại một chút.
Có mấy đóa “bạch vân trà”, có lẽ vữa mới mãn khai. Đấy
là loại tinh khiết, vương giả giữa trăm hoa, không để cho sư ông thưởng ngoạn
thì biết để dành cho ai nữa?
Nói xong, ông ta biến mất sau mấy cụm
bích đào, lát sau, mang ra một chậu trà mi trắng trang trọng đặt lên phiến đá
cẩm thạch.
Cả hai vị sư đều sửng sốt.
Trong chậu, mấy đóa trà mi trắng nõn
nường.
Như lụa? Như thủy tinh?
Như sương? Có lẽ chẳng phải thế! Nó như màu nguyệt bạch
hoặc như màu bạch ngọc nhìn qua làn trăng mỏng. Cũng
không hẳn thế. Thôi, chỉ diễn tả là đẹp lắm, đẹp tuyệt
vời, đẹp không có gì sánh nổi, không có cách gì mà dùng lời được.
Từng cánh hoa cong cong xếp lại. Mỗi cánh là một nét
yểu điệu, mềm mại của vì tiên nữ.
Ngoài ra còn có những đường vân tinh vi
khi ẩn khi hiện qua ánh sáng đã được chắc lọc tinh khôi, vô nhiễm...
Khưu ẩn sĩ nhìn đôi mắt sửng sốt của
hai vị tăng, y mãn nguyện, rung đùi ngâm:
- Tướng Phật, tướng hoa: vô nhị tướng!
Tánh hoa, tánh Phật: bản lai đồng!
Vị tăng trẻ cũng nhã hứng, thốt lên
một cách sảng khoái:
- Biệt biệt, nhất trần vô cá biệt!
Khán hoa kiến Phật, liễu vô cùng!
Khưu ẩn sĩ đứng dậy cung
tay hoan hỷ tán thưởng. Vị tăng đứng tuổi chép miệng, chặt lưỡi, ngó lên
trời than dài:
- Ôi! Đảo điên đến thế là cùng! Pháp
lộn tâm! Tâm lộn pháp! Chẳng hiểu đầu đuôi gốc ngọn ra sao mà dám xem Phật, hoa
là đồng đẳng! Khán hoa là kiến Phật! Ôi! Than ôi! Phật pháp suy
vi
đến thế là cùng! Kẻ học Phật thời nay ngông cuồng đến thế là cùng! Ôi! Than ôi!