Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Vọng
Việt bước lên khán đài thì mọi người im phăng phắc. Danh vọng của cha chàng,
giáo chủ Minh triết giáo đã là một nhãn hiệu chóa mắt đám đông. Hơn nữa, ở nơi
chàng tỏa ra một từ lực thu hút, hấp dẫn nên các cuộc hùng biện, tranh luận,
diễn thuyết chàng thường chiếm ưu thế.
Triết Hựu đứng ở một góc,
nhìn nghiêng dáng bạn và thầm nghĩ, hắn sẽ thắng lớn và thắng to như một con
mãnh sư hiên ngang trước đám cử tọa này. Các bậc danh sư trong quốc độ đã từng
ngợi khen gia tộc của y, đời đời làm những bác học bà-la-môn khả kính, thông tuệ.
Bức bình phong truyền thống đó đã như một thứ hào quang có thể chế ngự được bóng
tối, vẹt tan bóng tối, nghĩa là có thể đảo lộn được mọi giá trị, nghĩa là có thể
làm cho hữu lý những cái gì phi lý!
Cuộc diễn thuyết này do
cha chàng tổ chức, nói về Minh triết, vừa thăm dò dư luận mà cũng vừa khôn khéo giới
thiệu một thiên-tài-trẻ-tuổi
đầy danh vọng cho mai hậu. Nếu Quốc vương biết đến thì chàng sẽ là người kế thừa,
coi sóc nền Tôn giáo Văn hóa Quốc gia. Do vậy, buổi diễn thuyết được tổ chức chu
đáo và quy mô. Có những cỗ xe bốn ngựa rèm nhung. Có những thiếp vàng đóng triện
đỏ. Có những chàng kỵ sĩ áo trắng phi ngựa vun vút ngày đêm giăng mắc như màn
nhện khắp mấy phương trời. Những nhân vật được mời đều là những kẻ có danh vọng,
uy quyền, địa vị. Ấy là các đạo sĩ, sa-môn, giáo sư, đạo sư, chân sư, minh sư,
giáo phái chủ, giáo phái sư, tôn sư, đại danh gia, danh sĩ... Dĩ nhiên là có cả
các vị đại thần, công tử, vương tôn - những kẻ lãnh đạo, chiến sĩ hoặc quý tộc
có mang trong mình năng lực suy tư cùng kiến thức về Thượng đế. Đề tài được
thông báo trước như thách thức các sự tra vấn từ các hướng đối phương, khắp
thiên hạ! Triết Hựu thầm khen Vọng Việt gan góc dám một mình hứng chịu, đón đỡ
búa rìu dư luận. Nhưng không có gan lì như vậy thì làm sao dám hy vọng được
quàng vương miện cao cả mà thế gian không có người thứ hai? Y đã dám nhìn thiên
hạ như cỏ rác thì cũng dám liều lĩnh đỏ đen với định mệnh. Hắn sẽ thành công,
Triết Hựu nghĩ vậy. Những bậc danh sư cũng đã từng thúc thủ trước đầu óc uyên
bác và lối lý luận có thể dắt voi qua lỗ kim của hắn đó sao?
Hơn bao giờ hết, Triết
Hựu chờ đợi…
“- Minh triết là ánh
sáng từ Phạm thể, từ Thượng đế, từ ngài - thưa chư tôn, hiền giả - Vọng Việt -
cất giọng sang sảng trên diễn đàn - Ánh sáng từ Thượng đế nghĩa là ánh sáng
nguyên vẹn, chưa hề bị pha chất, trộn lẫn - mà là dung nhiếp tạp sắc, tạp đa, và
đồng thời, soi rọi vô minh, chọc thủng lưới mâyâ và vén mở đêm đen sinh tử.
Thưa chư tôn hiền,
Vậy thì Minh triết là
gì? Là sự thật tồn tại ngoài các giá trị. Là sự hiện hữu ở ngoài và ở trên mọi
hủy diệt cùng sinh thành. Là con đường nối dài từ tuyệt lộ. Là thực tại vô trụ ở
trên đầu cao trăm trượng. Là thảm nhung dưới vực thẳm. Là bình nguyên ở trong
ruột núi lửa. Là ốc đảo giữa sa mạc. Trên tất cả, Minh triết chính là chiếc lưới
lớn phủ trùm mọi tư kiến, thiên kiến, não kiến, loạn kiến, điên đảo kiến của trí
thức chủ quan nhân loại. Nó là chiếc cầu duy nhất, độc đạo, độc lộ dẫn về nhất
thể. Cuối cùng, Minh triết chính là sự-sống-đời-đời bất khả hủy diệt.
Từ lâu, chúng ta không
biết gì về Thượng đế, tuy thường đầy ắp kiến thức về ngài. Ngài sáng thế ra sao,
tin nhận từ ngài thế nào và con đường dẫn về nhất thể ra sao. Chúng ta biết rõ cả. Chúng ta có thể đọc thuộc
lòng trong giấc ngủ, diễn tả không bập bẹ phều phào những chữ và những lời chỉ
có giá trị biểu tượng. Chúng ta đã từng
víu bắt hư không trong đôi tay trần tục đã mấy
triệu kỷ nguyên rồi. Chúng ta đã từng vẽ trên mặt nước những tòa lâu đài cùng
những cung điện nguy nga để tọa thị bình yên hoặc ám thị với chính mình rằng đó
là những ảnh thực. Ôi, bi thảm biết bao nhiêu, bi đát biết bao nhiêu, lại đại
vọng nữa, mà, trong chúng ta ít có người dám nhìn nhận sự thật ấy. Minh triết
cũng chính là đối diện tuyệt đối với chính mình, là tước trần mình ra để hoàn
nguyên những gì mà ta chưa từng vay mượn từ cuộc đời.
Thưa chư tôn hiền,
Vậy thì Minh triết là gì?
Minh triết là Thượng đế. Nhưng ai biết về Minh triết thì kẻ đó chưa biết Minh
triết. Ai biết về Thượng đế thì kẻ đó chưa biết Thượng đế. Biết ve ngài là chối
bỏ ngài, phủ nhận ngài, phản bội ngài. Kẻ thật sự biết ngài thì không biết về,
nghĩ về, suy tư về. Thật sự biết ngài là sống-với-ngài, sống-cùng-ngài,
sống-trong-ngài, cùng ăn, thở, nói và bước đi. Cùng là một. Cùng trái tim, khối
óc, niềm vui, nỗi buồn. Chúng ta có thể biết về mọi thứ trên trần gian mà chúng
ta thường không biết mình. Ấy là sự thực: chúng ta thường quên mình. Chao ôi!
Đấng ấy và ta, không hai, không khác. Quên mình chính là
quên Đấng ấy. Đấng ấy chính là chân ngã được gói kín trong thân xác
và tư tưởng trần tục. Ngài đang có đó, đầy khắp, trong chư tôn hiền, trong tôi,
trong cọng cỏ,
trong tên trộm cướp, trong muôn vật muôn loài. Vì tình
yêu mà ngài cùng chịu định luật sinh thành và hoại diệt. Vì tình yêu mà ngài đã
đi bằng hai chân đất với vừng trán rướm máu hằn đau hữu hạn.
Thưa chư tôn hiền,
Chúng tôi vừa gặp ngài
nơi ven thung lũng sông linh thánh. Và ngài vừa trao cho thế gian một thông điệp
tuyệt vời: “Ánh sáng từ nhất thể, cẩm nang của ta, hãy tin và hãy nhận.”
Vọng Việt ngưng nói và
cử tọa cùng im lặng. Triết Hựu nghĩ là, Vọng Việt đã không thu hút gì mấy ở
tràng lý luận có quá nhiều sơ hở đó. Nhưng y thành công ở điểm khác, ở nhập đề
ởm ờ, hư thực, chân giả lẫn lộn. Ở đây, bóng tối lẫn lộn với ánh sáng, hai nhập
trong một. Hai và một là nhất như. Chỉ có một lối đối trị duy nhất, với hắn,
không phải là bằng lý luận mà bằng một nụ cười bát ngát sự khinh miệt. Đám môn
sinh đi theo các bậc thầy nhỏ to bàn tán: Y sẽ nói rằng, y có thẩm quyền về
Thượng đế rồi đây, y có cẩm nang của ngài, nghĩa là sẽ độc quyền về chân lý!
Thưa chư tôn hiền, Ngài
gặp chúng tôi vào một buổi sáng mù sương, khi chưa có bình minh và ngôi sao mai
đầu tiên - Vọng Việt hùng hồn tiếp lời - Ngày ấy mặt trời chưa mọc. Nghĩa là khi
mà huyền nghĩa còn ẩn tại huyền tính. Khi mà đạo, thái cực, vô cực chưa phân
ranh, chưa đọa xuống tượng
khí và tượng hình. Và tượng hình chưa đọa xuống tượng chữ và tượng nghĩa. Khi mà
âm dương nhị khí đang còn chan hòa trong nhất thể. Khi mà chư thần chưa có đôi
cánh để bay lượn trên trần gian, tất cả đang còn ôm nhau ngủ ngon trên giường
không tịch. Càn khôn, khi ấy mới chỉ là giọt sương, trong ấy long lanh cả mấy
triệu châu hà và đậu lại trên đầu ngọn cỏ. Ngọn cỏ biến thành
sợi-chỉ-huyết-thiên-thu để khâu lại thánh kinh và cũng để khâu lại từng cuộc
đời, từng thân phận cút côi, riêng lẻ. Thánh kinh được ghi bằng một ngôn ngữ đời
đời. Ấy là ngôn ngữ của vạn vật, của chim, suối, lá, hoa, mây chiỊu và nắng sớm
- mà may mắn thay - còn có kẻ đọc được - ấy là tượng đá trong đền đức Thánh mẫu
Kàlì.
Vọng Việt lại dứt lời.
Có tiếng vỗ tay và có cả tiếng la ó phản đối. Triết Hựu nhíu mày lại. Sao y lại
dám lộng ngôn trước đám cử tọa khả kính này? Động lực nào làm cho một người tuổi
trẻ thánh thiện này, từ một thuở ấu thơ trong trắng biến thành một tên hề vô
loại trước đám đông? Động lực nào làm cho Vọng Việt bị nhô ra ngoài cái bên
trong của con người vốn đã hoạt kê, hí lộng từ sơ thủy? Động lực nào làm cho
chàng ba hoa
nhảm nhí đối với đám cử tọa thức giả, đánh lận
con đen với Thượng đế? Cái ấy có tham dự, thúc động ở phía bên trong như đã với
chàng không? Hay là mọi nỗ lực của tri thức và
kiến thức ở nơi y là nhằm tìm đạt cái ấy, thỏa
mãn siêu hình cái ấy?
- Thưa chư tôn hiền,
Trong một lần nằm mộng,
chúng tôi đã được ngài dẫn đi cùng với quyển sách. Quyển sách được mở ra trước
tượng đá. Thượng đế thú thật là đã quên ngôn ngữ của ngài, chỉ có tượng đá mới
đọc được. Chỉ có cái không đọc được ngôn ngữ mới đọc được ngôn ngữ của ta.
Thượng đế phán như vậy!
Cuộc nói chuyện hôm nay,
thưa chư tôn hiền, do vậy, chẳng phải là một buổi diễn thuyết. Chúng tôi chẳng
dám lộng ngôn với các bậc thức giả, trí giả hôm nay - mà chỉ là sự chia xẻ lớn
lao, thông điệp của bậc tối thượng. Chúng tôi chỉ lặp lại, như lấy lửa từ mặt
trời, còn hơn là sự phản chiếu linh thánh trong đôi mắt phàm tục. Lý trí chủ
quan ngu xuẩn của con người như chân núi ngàn đời im lặng trước tiếng vỗ xói mòn
vô tận của đại dương. Lý trí có thể kiêu căng, ngã mạn, khám phá vũ trụ, chinh
phục thiên nhiên, nhưng nó luôn luôn bị công kích, xâm lăng, chế ngự, chẳng bao
giờ vượt thoát ra khỏi giới hạn tại thế của nó.
- Này các con của ta -
Thượng đế phán, đã một thời ta sai chư
thần xuống trần gian, chúng
sáng tạo thế giới nhưng đồng thời
cũng hủy diệt thế giới!
Hỡi các con của ta! Sáng
tạo để làm gì và hủy diệt để làm gì, các con đừng bao giờ tìm hiểu như vậy.
Các con chỉ cần hiểu
rằng, khi mà ta hiện hữu thì các con hiện hữu, thế giới này hiện hữu. Vì tình
thương mà ta sáng thế, vì tình thương mà ta hủy diệt. Các con hãy tin như vậy!
Hỡi các con của ta! Ta
mặc khải điều này, do huyền nhiệm mà các con đã từ ta mà đi, bởi ta mà sống, do
ta mà về! Cũng do huyền nhiệm nên chỉ có hai con đường: con đường của bóng tối
là bỏ ta mà đi và con đường của ánh sáng là do ta mà về. Bóng tối thì rơi xuống
mà ánh sáng thì bay lên. Chẳng có con đường nào nữa, hỡi các con của ta, ta đã
khải thị như vậy.
Quả thật, ta nói cùng
các con của ta rằng, chỉ có vâng theo hay phản bội. Vâng theo như Áp-bra-ham thì
hắn sẽ mất. Vì mất nên được. Phản bội như Giu-đa thì hắn sẽ được. Vì được nên
mất. Các con của ta, do huyền nhiệm tối thượng mà ta nói với các con điều chưa
từng nói: không được, không mất là chân phúc đời đời!
Hỡi các con của ta! Khi
ta mặc khải về nhất-thể, ta quên nói là có nhất-thể-vong-ngã và cũng có
nhất-thể-đại-ngã - nên các con đã phỉ báng và hủy diệt ta trong bao lâu. Vì bất
toàn nên cũng có khi ta lầm lẫn.
Nay ta sẽ nói với các
con rằng: vong ngã cũng có địa ngục, thiên đường. Đại ngã cũng có địa ngục,
thiên đường. Chỉ có kẻ nào vô ngã mới hết thiên đường, hết địa ngục. Đấy là điều
tối thượng mà ta chưa từng nói.
Thiên đường cũng chán
lắm, có kẻ nói như vậy. Nay ta cũng xin mặc khải thêm: cõi chân phúc còn tối
thượng hơn cái được gọi là thiên đường nữa. Ai đến, sẽ thấy. Ai gõ, cửa sẽ mở."
Nghe đến đây, Triết Hựu
run lên bần bật. Quả là kỳ lạ. Y hình như chỉ nói với ta thôi! Y nói về bóng tối
và ánh sáng. Y nói về vâng theo hay phản bội. Y nói về thiên đường và địa ngục.
Sau hết là vong ngã, đại ngã. Và chân phúc. Đây có phải là hai lộ trình cực đoan
của thế giới? Cũng là lưỡng cực của vũ trụ, nhân sinh, xã hội? Cũng là con đường
của thân-xác-bản-năng và lý-trí tinh-thần? Đại ngã chính là tôn sùng cái
tôi-chủ-quan, vạn năng của lý trí, từ đó y hưởng thụ thân xác, thành tựu lý
tưởng, phe nhóm tâm linh - từ đó y nói năng, hành động, tư duy, tu hành và lập
giáo cùng phụng sự quần sanh. Vong ngã là quên mình, mất mình. Quên mình, mất
mình trong vật chất hoặc trong tinh thần. Chúng thường được hiện hữu trong những
lúc đi đứng nằm ngồi, sáng tác, đắm say hí tiếu dục lạc, trầm mịch ngây ngất
trong các cơn xuất thần của thiền định. Vong ngã là vậy. Đại ngã là vậy. Đúng
lắm. Nhưng còn vô
ngã? Vọng Việt
có biết gì về vô ngã?
Trên diễn đàn, giọng
Vọng Việt càng lúc càng như thác đổ:
-Hãy đứng lên, này sư
tử! Hãy cúi xuống, này cừu non! Trong đêm trường dạ mịt
mù, ai đứng lên, kẻ ấy thắng. Trong cơn sấm to bão lớn, ai cúi xuống, kẻ ấy còn.
Nay ta cũng khải thị thêm một điều tối thượng: Chân phúc là cái không thắng,
không còn. Không thắng, không còn chẳng phải là thua hay mất!
Thiên đường dành cho kẻ
sáng, địa ngục dành cho kẻ tối. Nhưng ta cũng rao giảng thêm điều minh triết:
Chân như nó gồm hai: cả cái sáng và cái không sáng. Chân tri cũng gồm hai: cái
tri và cái bất tri. Chân ngã cũng gồm hai: vong ngã và đại ngã.
Chân như là gì? Hỡi các
con của ta! Chân như là như chân như thực. Ấy là sự điều hành nhân quả của pháp
giới và pháp giới trong nhân quả điều hành. Không do ai và không bởi từ đâu, nên
gọi là vô công.
Chân tri là gì? Hỡi các
con của ta! Đó là cái sáng láng. Nó biết được chính nó và có thể nắm vũ trụ
trong lòng bàn tay như nắm một quả xoài. Nó biết được, nhưng không có cái mà từ
đó nó biết. Tri với sở tri là một. Nên cũng gọi là vô kỷ.
Chân ngã là gì? Hỡi các
con của ta! Kẻ nào như thực biết ta là, ta là hiện tính thì kẻ ấy có thẩm quyền
về chân
ngã. Chủ tri,
năng tri hòa
nhập với
dòng
sống. Dòng sống cũng
chính là Thượng đế, cái đời đời. Và khi ấy, y chính là hiện thân của Thượng đế,
trong y có đầy đủ thập
giới, thập loài,
muôn hình, vạn tượng.
Vì làm Thượng đế nên y không hiện hữu riêng cho một loài, một loại, một giống. Y
là tất cả nhưng không tên gọi - nên gọi là vô danh.
Vô kỷ, vô công, vô danh
là vô ngã vậy.
Các con của ta, nay ta
phán truyền thêm điều này: Ta là Thượng đế mới, các con là loài người mới sống
trong kỷ nguyên mới. Đây là kỷ nguyên của bình đẳng và tự do tối thượng. Ta cho
phép các con thành tựu đấng vô ngã. Đấng vô ngã và ta, không hai không khác. Ta
cho phép các con được làm Thượng đế cùng ta và bằng ta, ấy là bình đẳng tối
thượng vậy. Khi làm Thượng đế rồi thì các con được quyền sáng hóa và sáng tạo,
ấy là tự do tối thượng vậy."
Các kiến thức của y
tương đối quảng bác. Có những điều y căn cứ để lập luận chưa được mọi người công
nhận như một định luật phổ quát. Y độc đoán và độc tài về chân lý. Nhưng quả
thật, nhờ thông minh, y đã làm cho những cái vô lý trở thành hữu lý. Chẳng có gì
mới mẻ cả, Triết Hựu nghĩ. Tại sao y lại dám vọng ngôn là “đoạt cẩm nang của
Thượng đế”? Hay do từ cẩm nang này, rồi y sẽ nhân danh là hậu duệ, là đích tử
của ngài để lập giáo và xiễn dương? Cũng từ cẩm nang này y sẽ rêu rao với quần
chúng, là chỉ có y mới có thẩm quyền về tri thức? Để độc quyền chiếm hữu Thượng
đế trong bàn tay lông lá thú vật của y?
Trong lúc Triết Hựu đang
miên man suy nghĩ thì Vọng Việt vẫn đều đều cất tiếng nói. Y bắt đầu nói về sự
bế tắc của các con đường, các tông giáo. Y lập luận từ cái cục bộ để đi đến toàn
diện, từ cá thể để đi đến toàn thể. Trên tiến trình về tuyệt đối, y phá hủy từng
bước một, phủ nhận từng bước một, đồng thời, xác định giá trị, tuy hữu hạn của
các con đường. Hầu như y không phủ nhận gì nhưng lại chối bỏ toàn triệt. Đây là
cái khó khăn của y, đồng thời cũng là thành công lớn của y. Như tên thợ gốm lành
nghề, y nhồi bóp nghịch lý trong đôi tay thiện nghệ rồi nắn đúc thành một tạo
phẩm tuyệt mỹ. Như một tên thợ dệt, y tướt tư tưởng ra từng sợi rồi dệt nên một
tấm vải tổng hợp tư tưởng vĩ đại. Rồi cuối cùng, giống như một tên thợ khảm, y
đập vỡ ly tách, lọ kiểu, chén kiểu rồi khảm thành một con phụng hoàng to lớn
giữa hư không. Con phụng hoàng có tên là minh triết, được điểm nhãn, rồi tung
cánh bay rợp trời tư tưởng Ấn Độ. Và từ đó, những phần tử, yếu tố, căn để cấu
tạo nên con phụng hoàng ấy chỉ còn là cái vô danh, bị hy sinh, bị quên đi - hay
là được dính liền vào thân xác con phụng-hoàng-nhất-thể-minh-triết để sống mãi
đời đời trong chân lạc, chân phúc và chân tri.
Đấy là
toàn bộ cẩm
nang của Thượng đế mà Vọng Việt nhân danh sứ giả
giải kết lại. Cả đám thính giả rã rời, tê liệt trước ngôn ngữ sấm chẻ của chàng.
Vọng Việt đắc thắng và hân hoan nhìn
đám thức giả cử tọa: những mái tóc bạc, những manh áo cà sa, những thân thể
tượng đồng rám nắng, những vừng trán bao la, những đôi mắt sâu thẳm, những rèm
mi khép lại, những dáng ngồi trầm mặc, những chiếc khố rách thân hạc, những kẻ
phong trần, những chiếc áo sặc sỡ, những thân thể phì nộn, những đôi mắt xanh,
áo the, áo lụa, những giải điều hồng…...
Không ai chất vấn. Triết
Hựu nghĩ. Chất vấn là phản kháng, là dấu hiệu bối rối hoặc bất an ở phía bên
trong - nó chứng tỏ một non yếu về nội lực, sự ngây thơ của lý trí, thiếu sự
trưởng thành của trí tuệ, một suy kém về tâm linh! Có lẽ là đám cử tọa quá minh
triết, đã lãnh hội điều minh triết nên đã im lặng đầy minh triết? Nghịch lại với
nó là hình thức im lặng khác. Là hạ trí, ngu độn, tối tăm? Vọng Việt đã lợi dụng
hai trạng thái dị tánh mà đồng tướng này chăng? Cái khôn ngoan quá mức của Vọng
Việt làm chàng se lòng lại. Mà thế gian, có phải, rồi cuối cùng, chỉ biết hoạch
đắc những cái tầm thường đến ghê tởm như vậy? Đấy có phải là diệu dụng lớn của
ma vương, sa tăng hay là trò diệu hóa của Thượng đế? Vọng Việt đâm gốc rễ từ
trong lòng thế gian, đã bám chặt vào truyền thống
gia tộc, danh vọng, địa vị, tiền tài, thế lực,
quyền uy - cái đống bùn tanh hôi - mà dám nói về minh triết? Ngôn ngữ của y rõ
ràng là tỏa ra quá nhiều xú khí
đến lợm giọng,
nôn mữa - ma
sao y không sợ xúc phạm đến ngài? Với những thuộc tính trần ai, tử sinh kia mà
dám nói đến một cách tự mãn, tự hào về những điều tối thượng, về nhập thể, minh
triết, ly xuất thế gian, Thượng đế!
Than ôi! Cái ấy có phải
chỉ cần tư duy? Chỉ cần nói năng mà không cần ba ngàn oai nghi và tám muôn tế
hạnh?
Một nỗi buồn nản đến tê
tái xâm lấn tâm hồn Triết Hựu, nên chàng đã quay lưng đi với mọi danh vọng của
người bạn thân. Chàng đã để lại trên khán đài huy hoàng kia một người bạn chân
tình. Có lẽ vì quá chân tình nên phải đành phản bội! Vương miện đó cuộc đời sẽ
trao cho ngươi nhé - cả tình yêu, danh vng và giàu sang nữa - sau buổi diễn
thuyết này. Xin chào, xin chào thế giới đầy ánh sáng quang vinh của ngươi, Vọng
Việt nhé! Còn ta? Rốt cùng, vẫn chui rúc trong bóng tối đơn điệu nhưng cũng đầy
kiêu hãnh của ta.
Trong lúc tuyệt vọng ấy,
một tiếng nói mỏng như hơi sương thoảng qua tai chàng:
- Hãy tỉnh trí lại,
người tuổi trẻ!
Triết Hựu đứng sững lại.
Đây quả là một huyền nhiệm mới, truyền
thông mới: Thượng đế,
qua hiện thân của Người-xin-lửa lại đến với chàng.
- Con đã vừa bỏ quên
Thượng đế. Bỏ quên mình chính là
bỏ quên Thượng đế. Con vừa bị đọa xuống trần gian nên đã để cho các
niềm vui, nỗi buồn chi phối. Con vừa nghe những lời phán truyền của ngài qua
ngôn ngữ của minh triết giáo mà con có hiểu gì đâu.
Chàng vừa bị vong ngã?
Quả thật vậy. Bị sự thúc hối của ngoại cảnh, của tư duy, chàng bị đẩy bật ra
khỏi chàng lúc nào không biết, không hay. Tiếng nói của Người-xin-lửa đã đưa
chàng trở về! Ôi! Hạnh phúc biết bao nhiêu, chàng đã có một vị từ mẫu, đã có một
quê hương…! Triết Hựu chấp tay giữa hư không. Và quả thật, chàng thấy mình như
đang ở giữa hư không bát ngát.
- Con vẫn tối đen, thưa
ngài. Con hiểu nhưng chưa thực hiểu.
Giọng nói giữa không
trung vẫn từ hòa, êm ái:
- Con hãy trình bày lại
những sở kiến của con về cái gọi là “cẩm nang của Thượng đế” kia.
- Đấy chỉ là ngôn và
lời, chẳng phải là Đấng ấy. Cái tư duy của y không khác với tư duy của con, lại
càng không khác với kinh điển tự ngàn xưa còn để lại. Y chỉ hâm nóng thôi. Trước
mặt, con vẫn vô định. Sau lưng, con bị định mệnh săn đuổi. Bên trong, rối loạn,
đau khổ và hoang mang. Con chỉ muốn xin ánh sáng của ngài thôi, của thầy thôi.
Xin thầy hãy cho con ánh sáng mới và đôi cánh mới
để con
thấy đường và
bay qua vực thẳm cũ xưa này!
- Con có tin ta không?
Triết Hựu lại chấp tay
xá:
- Con tin, hỡi ngài đại
sa-môn, hỡi đức thầy cao cả. Con giao trọn tính mệnh con cho ngài!
- Có mù quáng không?
- Không. Nếu gọi được là
đức tin thì đây chính là đức tin tuyệt đối, đức tin tối thượng. Cũng gọi là trí
tuệ bất khả tư nghì. Con tin ngài.
Có tiếng cười rất nhỏ
giữa mù sương:
- Nếu ta bảo con chết
đi? Vì chết mới phục sinh?
- Con sẽ chết - Giọng
Triết Hựu đầy vẻ tín phục và cương quyết.
- Nếu ta bảo con hãy trở
về với gia đình, vì, phiền não dấy sinh nơi đâu thì phải dập tắt ở nơi đấy.
- Con sẽ trở về gia
đình, an phận thủ thường và làm đầy đủ bổn phận tại thế hữu hạn.
- Nếu ta bảo con xuất
gia? Vì xuất gia mới trọn vẹn với con đường, mới đáp đền tứ trọng ân một cách
tròn đủ, hợp lẽ và cao thượng?
- Con sẽ xuất gia và
theo gót đức thầy.
Im lặng hồi lâu.
- Được rồi! Nhưng, những
biện pháp kia chẳng có biện pháp nào sai, tuy thế, chúng chẳng phải là cách giải
quyết của bậc tâm linh. Tất cả đấy chỉ là pháp đối trị, là trò chơi như huyễn.
Con hãy nghe!
Và Triết-Hựu chờ đợi.
Một lúc chợt có tiếng thở dài:
- Rồi ta cũng phải dùng
ngôn và lời thôi, có khác gì minh triết giáo đâu.
- Chắc chắn rằng ngôn và
lời của đức thầy khác.
- Khác như thế nào?
- Đằng sau ngôn và lời
của y, của Vọng Việt, có bóng tối. Và tử sinh.
- Con lấy gì mà nhìn để
biết rằng y có bóng tối và tử sinh?
Triết Hựu ngập ngừng
giây lâu:
- Cái linh quang vô sinh
của con!
- Vậy ngay cái linh
quang vô sinh ấy đã là cái sáng suốt mầu nhiệm. Nó thấy rõ con đi, đứng, nằm,
ngồi, làm việc ác, làm việc thiện. Vì vô sinh nên nó bất tử. Không những nó thấy
rõ bóng tối mà còn thấy rõ ánh sáng. Con đã có được cái linh quang sáng suốt mầu
nhiệm vô tử bất sinh ấy mà sao còn đi tìm cái ánh sáng tâm linh nào khác nữa?
Triết Hựu bàng hoàng.
Chàng lặng người một lúc và cảm thấy rằng: mình đi tìm cái mà từ lâu mình đã có
sẵn rồi.
Giọng nói vô hình còn
rót nhẹ vào tai chàng:
- Con đã
từ cái linh
quang vô sinh ấy ma đến,
trong cái linh quang vô sinh ấy mà sống và cũng
bởi cái linh quang vô sinh ấy mà về. Con còn
sợ bị lạc lối
đi đâu nữa? Nó
thường hằng và ở mãi bên con không
rời nhưng vì màyà che
lấp nên không thấy đó thôi.
Triết Hựu im lặng, chàng
không biết nói gì nữa cả.
- Bấy lâu con bị vọng
hoặc săn đuổi, ma vương tiếp tay, vô minh bịt mắt nên đã đông, tây, nam, bắc
kiếm tìm. Đấng ấy chỉ cần thấy chứ không phải kiếm tìm, có phải? Bấy lâu con
cũng đã không còn tin ai và hoài nghi tất cả mọi người, nhưng con đã không dám
hay không biết tin mình và hoài nghi chính mình. Tin chính mình là tin vào chân
ngã tối thắng, từ đó, đạp đổ tất cả mọi giá trị ước lệ, những niềm vui thúc
phược, những hiểu biết, tri thức, giáo điều. Nghĩa là đạp đổ và san bằng ba ngàn
thế giới trong một niệm hiện tiền tỉnh thức. Chỉ có đức tin rốt ráo vào chính
mình như vậy mới thực hiện nổi §ấng ấy trong con. Như vậy, trên lộ trình vô
thượng ấy làm gì có những cái gọi là giáo chủ, đức thầy, tôn sư, đệ tử? Dám tin
chính mình cũng dễ đưa đến đại ngã, tăng thượng mạn, do vậy, phải biết hoài nghi
mình nữa. Hoài nghi mình là để quân bình lại cái bản ngã vốn được khuyếch đại do
tự tín cực đoan đem đến. Hoài nghi mình là gì? Là coi chừng bị cái ấy điều động,
thúc giục, chi phối. Cái ấy nó ở ẩn thâm sâu trong tự ngã của mỗi chúng sinh.
Dục vọng là tự ngã. Tự ngã cũng chính là Đấng ấy. Nhưng Đấng ấy là vô dục mà tự
ngã hữu dục. Tự ngã cũng
minh mà cũng vô minh.Nhưng chân phúc thay cho ai là kẻ thực hiện dung
nhiếp hài hoà và trọn vẹn hai bề mặt của thực tại ấy. Bậc ấy gọi bậc tự do và tự
tại.
Triết Hựu thấy mình lãnh
hội đầy đủ từng chữ, từng lời, từng nghĩa. Trên tất cả, Triết Hựu hiểu ở phía
sau những chữ, những lời, những nghĩa ấy. Nó như là một thứ ánh sáng không màu,
chan hoà, không nhân, không quả, không trước, không sau. Nó tràn lan đầy ắp
không gian, xuyên sâu vào các tế bào, nguyên tử, phân tử, điện tử. Nó vô ngại
không thời gian. Cái ánh sáng vô căn và tuyệt đối ấy – nó đẩy lùi mất cái bóng
tối trong chàng.
- Kẻ nào muốn làm sư tử,
coi chừng đại ngã. Kẻ nào muốn làm cừu non, coi chừng vong ngã! Nhưng chân phúc
thay cho ai thấy rõ mình vừa là sư tử vừa là cừu non. Đấng ấy gọi là đấng thành
tựu vô thượng tối thắng hậu đắc trí!
Sứ mạng của thiên thần
khác sứ mạng của cọng cỏ - nhưng chân phúc thay cho ai thấy rõ cả hai sứ mạng
đều được Thượng đế giao phó và đều bình đẳng trước ngài. Đấng ấy gọi là đấng hoà
bình, thuận nhĩ và vô chấp.
Có hai con đường dẫn về
chính mình:Đường bên ngoài và đường bên trong. Kẻ nào thực hiện con đường bên
trong, coi chừng đại ngã và nội ma. Kẻ nào thực hiện
con đường bên ngoài coi chừng vọng ngã và ngoại ma. Nhưng chân phúc thay cho ai
thấy rõ cả hai con đường là một, là bất nhị. Đấng ấy gọi là đấng trung đạo, đấng
trung dung, đấng tự chủ.
Cũng có hai con đường
dẫn về chính mình nữa: địa ngục và thiên đường. Thân xác cho địa ngục và tinh
thần cho thiên đường. Nhưng chân phúc thay cho
ai thấy rõ mình không phải là thân xác cũng chẳng phải là tinh thần. Đấng ấy gọi
là đấng cõi ngoài, đấng toàn diện.
Hãy lên đường, người
tuổi trẻ! Nay ta cũng vừa trao cẩm nang của Thượng đế cho con. Ta không chúc con
chứng nghiệm đau khổ hay thành tựu hạnh phúc mà chỉ chúc con nhìn thấy Thượng đế
trong chính mình...
Tiếng nói đã chấm dứt từ
lâu mà Triết Hựu còn quỳ lạy mãi. Hình như cả thế gian chỉ có tiếng nói ấy là
thực. Ngoài tiếng nói ấy, không còn ai, không có gì nữa cả... nhà cửa, đường
phố, ngựa xe...
Lúc ấy một đám đông đang
vây quanh chàng. Người, ngựa, xe dồn nghẹt cả một góc đường. Chàng chợt mỉm cười
vô cảm với đám đông: chúng đi xe, đi ngựa thì ta đi chân! Con đường nào rồi cũng
dẫn về chính mình. Cuộc đời sở dĩ có sự sống, màu sắc trăm hoa là nhờ có muôn
vạn con đường sai khác. Nếu trong một ng«i vườn mà
thuần một
loài hoa thì chán
Mắt biết
bao nhiêu? Nếu
cuộc đời chỉ
có một loại người như chàng thì vũ trụ này sẽ huỷ diệt!
Triết Hựu đứng phắt dậy
và cười ngô nghê như tên loạn trí:
- Mọi sự đều tốt lành.
Mọi sự đều tốt lành!
Và chàng chấp tay xá mọi
người:
- Thâm tạ bộ hành, thức
giả, bậc tâm linh, đại trí, thượng nhân! Thâm tạ mọi người, cuộc đời, vạn cuộc
đời, cây cỏ, đất cát, gió mây, nắng mưa, vui khổ... Thâm tạ… Thâm tạ!
Một thanh niên, bỏ ngựa,
bước tới nắm vai chàng lắc mạnh:
- Hằng trăm người ở đây,
chẳng lẽ rỗi công để chứng kiến cái ngu ngốc điên loạn của ngươi sao? Cút nhanh
đi!
Con cừu non trong Triết
Hựu nói nhỏ: Xin vâng, xin vâng! Và chàng mỉm cười nhẹ, không nói. Thanh niên xô
mạnh chàng vào một cột trụ. Có máu chảy trên trán thì phải. Chàng lập lại tiếng
cừu non: “Xin vâng, xin vâng!” ri lại mỉm cười. Bình an biết bao nhiêu, chàng
nghĩ.
“Chân phúc cho ai thấy
rõ mình vừa là cừu non vừa là sư tử”. À, trong ta không chỉ có cừu non! Và tiếng
sư tử chợt
rống lên bên trong chàng: “xin đừng, xin đừng”. Thế rồi, sau cái mỉm cười
thầm lặng nhưng chắc nịch và nặng ngàn
cân, chàng mạnh bạo nhấc người thanh niên rồi quẳng vào phía một chiếc
xe hai ngựa. “Xin đừng, xin đừng”, con sư tử trong ta nó rống như vậy đó mà.
Triết Hựu cười hô hố rồi co giò chạy mất.
- Chúng nó không biết
rằng, ngoài cừu non, trong ta còn có cả sư tử nữa.
Chàng để lại tiếng nói
đó cho đám đông.
________________________________________
THOÁT LY
Một sáng kia, cha Triết
Hựu gọi chàng lại, với giọng nghiêm khắc, nói rằng:
- Vọng Việt cùng một lứa
tuổi, sở học với anh, nhưng y đã là kế thừa sự nghiệp của giáo chủ Minh triết
giáo. Bao nhiêu quang vinh đã đến cho gia tộc, họ hàng, cả bản thân y nữa. Còn
anh? Anh làm được gì? Cho thế gian? Cho gia đình? Hay ít nhất là cho anh?
- Tất cả cái ấy đều là
mµyµ, là huyễn hóa. Nó không thực. Thượng đế dạy như vậy.
Hựu trả lời rồi nhìn sâu
vào mắt cha chàng trong tư thái hoàn toàn tự chủ.
- Nó không thực nhưng nó
đã làm nên cơm áo, nhà cửa, tôi tớ, ngựa xe, điền sản…! Anh vì chấp nó không thực
nên anh sẽ là tên áo rách, đầu đường, xó chợ, bị mọi người phỉ nhổ, chà
đạp, khinh bỉ. Không những thế, anh còn hắt cái bóng tối của anh lên gia tộc. Cả
sự nguyền rủa nữa!
- Sứ mạng của
thiên thần khác sứ mạng của cọng cỏ, nhưng nó tạo sự hỗ tương, hòa điệu
trong nhịp vận hành chung của pháp giới. Thiếu một trong hai, vũ trụ sẽ tàn phế,
què cụt. Thượng đế dạy như vậy. Mọi loài đều bình đẳng trước ngài. Ngài không
đặt ra giá trị và không thiên vị. Các bảng giá trị chỉ do bọn thế nhân phàm tục
quy ước với nhau.
Người cha vẫn bình tĩnh
nói:
- Mỗi người mỗi khác. Dĩ
nhiên. Thượng đế không bao giờ lầm lẫn. Chỉ có sự lầm lẫn của con người. Lầm lẫn
để chọn địa ngục mà tưởng là thiên đường đó thôi.
- Thưa cha! Địa ngục và
thiên đường là hai con đường cách biệt. Nhưng đều là con đường dẫn về chính
mình. Nhưng chân phúc là cái không phải địa ngục cũng chẳng phải là thiên đường,
Thượng đế dạy như vậy!
Lại một lần nữa, Triết
Hựu nhìn vào mắt cha chàng với niềm thanh lặng vô biên. Nhưng người cha đã không
còn tự chủ được:
- A! Hóa ra anh nhân
danh Thượng đế để phủ nhận trọn vẹn cha, mẹ, áo cơm? Anh nhân danh ngài để lý
luận vô thần và địa ngục với tôi?
- Cha đã hiểu sai đi,
thưa cha! Địa ngục cho thân xác. Và thiên đường cho tinh thần. Con khinh bỉ vật
chất, hí tiếu dục lạc, thế là địa ngục không ở trong con. Con khinh bỉ
tinh thần vì
nó là cái bản ngã, sở tri, kiến chấp, kiến thủ.
Thế gian đã vì điều ấy mà đánh lận con đen với Thượng đế. Chúng đã nhân danh
tinh thần, còn hơn nữa, lấy nhãn hiệu Thượng đế để có một đời sống vinh thân phì
gia, hưởng thụ thân xác. Dù sao, kẻ nhân danh thân xác mà không qua một nhãn
hiệu nào, chẳng thèm nhân danh ai, chúng thành thật, thế mà đáng kính trọng hơn!
Còn con ư? Con là một cái gì ở ngoài tinh thần lẫn thể xác. Thiên đường, vì vậy,
chẳng có một chỗ đứng nào trong tâm con.
- Vậy thì anh làm gì?
Chỉ dùng ngôn và lời như vậy là thành tựu được Đấng ấy ư?
Người cha đã trầm tĩnh
trở lại. Hựu nói:
- Làm gì? Sao lại phải
làm gì? Làm gì thì coi chừng bản ngã và tham dục thúc động. Chỉ có kẻ nắm trọn
tinh nghĩa, mật nghĩa của Thượng đế trong tay, mới biết sáng hóa được đời mình,
mới biết là nên “làm gì” và nên “không làm gì”. Con nhìn thấy cái ấy, cha không
nhìn thấy.
Người cha đứng bật dậy
như chiếc lò xo, hai tay nắm chặt lại, run run. Triết Hựu thấy mình sáng suốt
hơn bao giờ. Thượng đế cũng có hiện hữu ở đây, phía
bên trong cái cuồng nộ của cha chàng!
Người cha chợt bỏ tay
xuống. Và tự chủ:
- Anh hãy bước ra khỏi
căn nhà này và vĩnh viễn đừng bao giờ trở lại. Trí khôn
bảo với tôi rằng: hãy nên lý luận với đầu gối
mình còn hơn là lý luận với phường vô loại, nghịch tặc, bất tiếu và vô đạo. Ngựa
chướng bất trị thì giết, gà không biết gáy thì làm thịt, cây lớn mà vô dụng thì
đốn bỏ. Rồi anh sẽ hiểu rằng, anh chỉ là phường vô hạnh, quần rách, áo ôm. Rồi
anh sẽ hiểu rằng, kiến thức quảng bác của anh chẳng đủ để nuôi sống thân xác.
Rồi anh sẽ hiểu rằng, sự hiện hữu của anh còn tệ hơn một đống củi mục, một đống
thịt thối, một bộ xương khô. Anh không nghe lời tôi thì Thượng đế sẽ quẳng anh
xuống địa ngục, xua anh ra khỏi thiên đường. Hãy cố gắng mà làm một xác ma ôm
nỗi sa đọa và điêu tàn cho đến ngày mãn kiếp. Tôi đã hết ngôn ngữ để nguyền rủa
anh. Hãy đi vào bóng tối trong niềm kiêu hãnh xuẩn ngốc đó. Hãy bước đi!
Triết Hựu quỳ xuống và
lạy cha hai lạy:
- Một lạy: vì cha đã cho
con thân xác hay ít nhất là nuôi dưỡng thân xác! Một lạy: vì cha đã cho con trí
thức hoặc tưởng như được nuôi dưỡng tri thức! Thế là con đã hết nợ nần, thưa
cha! Bây giờ con vĩnh viễn giã từ ra đi và bắt đầu sáng tạo lại đời mình. Con
phục sinh.
Triết Hựu tỏ
thái độ với
cha chàng như
vậy.
Lạnh lùng, phản bội và
vô cảm như vậy. Nhưng còn mẹ chàng? Tiếng khóc ấm ức, đeo níu ấy lại làm chàng
bật cười:
- Con chẳng con
thiếu nợ gì nơi mẹ nữa cả. Hơn
hai mươi năm trời chịu
đựng tủi nhục, đắng cay, cưu mang định mệnh trần ai, vác thập tự giá trên vai
qua bao chặng đường tân khổ cũng khởi từ cái giây-phút-địa-ngục ấy của mẹ. Chẳng
biết là con nên đền ơn mẹ hay là mẹ nên đền ơn con? Hay rồi ai cũng đến với
nhau, gặp nhau trong những cuộc đổi chác, trả vay? Bây giờ thì hết rồi. Khi mà
con sư tử trong con nó rống lên rằng: “Hãy thoát ly”, thì còn quyến niệm nào mà
cột trói con được? Mẹ yêu quý, đấy là sự thật. Kẻ trí thì chẳng bao giờ đau lòng
về một sự thật, dù là sự thật xót xa. Con xin đi. Và dù có gục ngã, dù có nếm
trái đắng mật đen, dù có bỏ thây giữa cuộc đời gai lửa - con cũng không quay về.
Con sẽ làm một hoang tử vô quy!
Thế là Triết Hựu ra đi.
Chàng ra đi không hành trang, hành lý, chỉ một bộ áo quần đang mặc với niềm tin
mãnh liệt vào điểm linh quang ở trong người chàng. Lòng Hựu dậy lên một nỗi rộn
ràng kỳ thú. Tất cả đều như mới mẻ trong mắt chàng. Ông già bán hàng ở đầu ngõ
nhìn chàng lặng lẽ như chia sẻ cái niềm vui đang nghi ngút bốc cháy trong tâm
chàng. Cô bé ở tiệm
nước bên kia căn phố đối diện
đưa đôi mắt huyền nhìn chàng như thể âu yếm với tình nhân. Đứa bé bán đồ vặt
trước hiên một tiệm bách hóa, thấy chàng, đưa tay vẫy với nụ cười vu vơ. Cuộc
đời như sống lại. Chàng nghĩ. Tất cả như đang thân thiện, gợi mời. Tỉnh táo và
ráo hoảnh như vừa ngủ dậy. Thế giới ấy, từ lâu tại sao chàng không nhìn thấy? Từ
lâu, ý thức chàng đâu phải không ghi nhận những sinh hoạt của đời người? Có lẽ,
từ lâu, đắm chìm trong suy tưởng và bị ám ảnh nhức buốt bởi một định mệnh, nó
tạo thành một bóng tối ngăn cách to lớn, một tình cảm chủ quan mưng độc - làm tê
liệt tất cả mọi quan năng chăng?
Ra đi, quả thật là giải
thoát. Chàng nghĩ. Cái ách lớn của định mệnh kia chàng đã hất tuộc ra khỏi cổ
rồi. Hay tưởng như hất tuộc đi rồi thì cũng thế. Hựu không xác quyết hoặc khẳng
định như thế này như thế kia vội. Mất thì giờ. Vì còn cả một đời sống trước mặt:
Ôi, cái trước mặt cao rộng, to lớn và tuyệt mỹ biết bao nhiêu!
Ô kìa! Một chú bê con!
Thượng đế không những chí thiện, chí nhân mà còn chí mỹ nữa! Một chú bướm vàng!
Ồ, tuyệt diệu! Một cụ già nước da đen sạm đang
chống gậy lê từng bước
một. Ôi, yêu thương làm sao? Ro ràng là cuộc đời chợt tuôn tràn sáng láng kéo
theo niềm lạc thú vô hạn. Chàng nhìn về phía ấy, phía chân trời – và thấy mình đang đi với từng
bước nhảy...