Thiền và trà đạo
Thích Phụng
Sơn
Khi nói đến Trà đạo, có lẽ chúng ta muốn biết
ngay Trà đạo là gì. Lợi Hưu
(Rikyu, 1522 - 1591) người
đã đưa nghệ thuật uống trà trở thành Trà đạo, trả lời rất giản dị: “Trà đạo là cách làm cho
ta hết khát.”
Chúng ta khát nước khi uống không đủ, và chúng ta
thường khao khát niềm an vui và
muốn hòa nhập với sự sâu thẳm
của tánh tự nhiên sẵn có nơi
mình. Tánh đó vốn rộng lớn bao la, trong
sạch
vô cùng,
an
vui vô
hạn
và tĩnh lặng nhiệm mầu. Chúng ta gọi tánh ấy là
tánh chân thật, tâm chân thật (chân tánh hay
chân
tâm) hay Phật tánh.
Trà đạo là nghệ thuật
pha và
uống trà, đưa ta tiếp xúc thẳng với cội nguồn tâm linh ấy.
Nguyên tắc của Trà đạo
nằm sẵn trong nguyên
tắc
sống thiền: hòa hợp, trang trọng, tinh sạch và tĩnh lặng.
Thiền cũng chỉ
là một tông phái của
Phật giáo, nên các nguyên
tắc trên vốn là sự
bất khả phân giữa hiện tượng bên ngoài và
thế giới bên trong. Sự hòa hợp, trang trọng, tinh sạch và tĩnh lặng
của trà thất, của trà chủ (người mời) và trà khách
(người được
mời) vốn là sự hợp
nhất của tâm và cảnh,
của thế giới bên ngoài và thế
giới bên trong nơi mỗi chúng ta.
Tô Đông Pha, một
thi sĩ nổi tiếng và cũng là
một người tinh thông đạo
Phật, đã ca ngợi trà có tánh chất
tinh khiết và giống như một người có đức hạnh cao quý, trà
không sợ bị hư hỏng. Các vị Tăng sĩ Trung Hoa
trước đây đã thực hành nghi thức
uống trà trước tượng
của vị tổ Bồ-đề-đạt-ma theo những cung cách trang
trọng, biểu lộ trạng thái an bình,
rỗng
lặng nhưng linh động của tâm uyên
nguyên, tâm ban đầu nơi mỗi chúng ta vốn luôn
luôn tinh sạch và tỏa
chiếu sự thấy biết chân thật. Nghi thức này cùng với
nền văn minh đời nhà Tống bị hủy hoại nặng nề khi người Mông Cổ xâm
chiếm và cai trị
Trung Hoa. Nhiều hoa trái của nền văn minh đó đã được chuyển
sang Nhật Bản, được nuôi dưỡng và đơm hoa.
Ở các thiền
viện thuộc dòng Lâm Tế
(Rinzai), các buổi thiền trà được diễn ra một
cách nhanh chóng và lặng
lẽ. Sáng sớm, các thiền sinh thức dậy vào lúc 3 giờ
sáng, vệ sinh cá nhân
rồi vào thiền đường.
Thiền sinh phụ trách pha trà
(trà giả) đã sẵn sàng với các chén trà
đã lau sạch bóng cùng ấm trà
nóng. Thiền sinh bưng khay đựng chén trà đến
trước mỗi hai thiền sinh, cúi đầu
chào. Hai thiền sinh chắp tay
xá đáp lễ và mỗi
người lấy cái chén nhỏ
để trước
mặt mình. Lần lượt như vậy cho đến
khi mọi người đều có chén, thiền
sinh phụ trách mời trà đem bình
trà đến giữa mỗi hai người, trịnh trọng cúi chào và
châm trà. Khi mọi người đã có trà
trong chén, một tiếng báo hiệu vang lên, mọi
người để
tâm vào
hơi
thở nhẹ nhàng thoải mái, nâng chén
trà lên
và
uống trà hoàn toàn trong
tĩnh lặng.
Các thiền đường dòng Tào Động (Soto) không uống trà vào mỗi
buổi sáng như trên mà
chỉ vào các dịp đặc
biệt trong tháng. Vị thiền sư mời tất cả thiền sinh uống một tách trà quý do một
cư sĩ biếu ngài. Trong những dịp ấy, vị thầy thường ân
cần nhắc nhở môn sinh
nỗ lực tu hành tinh
tấn để thâm nhập vào sự kỳ
diệu của tâm giải thoát.
Điều này làm chúng ta
nhớ lại truyện các vị vua Nhật
Bản ban trà cho quý vị
tăng sĩ, như vào năm
729, Thánh Vũ Thiên Hoàng ban trà cho một
trăm vị tăng tại cung Nại Lương. Đời sống tu hành
của các vị tăng, ni và trà
liên hệ với nhau rất mật thiết về nội dung cũng như hình thức.
Thiền trà nói trên là
cách uống trà trong thiền
đường, cùng
phát triển theo dòng
thiền đốn ngộ do ngài Huệ Năng chủ xướng. Đến thế kỷ 15, người Nhật đã tạo ra một nghi
thức uống trà đặc biệt ở bên ngoài thiền viện mà chúng
ta thấy còn tồn tại
cho đến nay.
Tuy cách thức có khác nhau,
nhưng cũng phản ảnh sự hòa hợp,
trang trọng, tinh sạch và tĩnh lặng
của Trà đạo.